Nhà hiền triết Hermes: Sau các thảm họa, thế giới sẽ khôi phục lại trạng thái ban đầu
Học thuyết Hermes từ sớm đã chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa phương Tây. Hermes là một vị thần trong thần thoại Hy Lạp và được cho là sứ giả của Thượng Đế. Còn trong lịch sử, ông là một nhà tiên tri, tên là Hermes Trisme-gistus. Các học thuyết của Hermes bằng tiếng Hy Lạp và tiếng Latin đã được ghi chép lại trong cuốn Hermetica.
Flinder Petrice, một nhà khảo cổ học và là người đặt nền móng cho ngành cổ vật học Ai Cập, tin rằng cuốn Hermetica đã được viết trong khoảng thời gian từ năm 500 đến 200 trước Công Nguyên, và là bản dịch tiếng Hy Lạp của triết học Ai Cập cổ đại. Mà cuốn triết học Ai Cập nguyên bản thì không cách nào tìm thấy, ông đoán rằng nó có thể đã bị phá hủy bởi chiến tranh.
Đã không có manh mối lịch sử từ văn bản gốc, tại sao ông còn cho rằng cuốn Hermetica có nguồn gốc từ Ai Cập? Điều này là do các luận thuật và ví dụ được trích dẫn trong cuốn sách đều diễn ra ở Ai Cập, thậm chí trước cả thời Ai Cập cổ đại, có rất nhiều miêu tả là dựa vào cuộc sống ở lưu vực sông Nile làm tài liệu thực tế. Do đó, mặc dù cuốn Hermetica được viết bằng tiếng Hy Lạp, nhưng nó là học thuyết từ thời Ai Cập cổ đại.
Nhà sử học Scott Walter đã biên soạn nó sang tiếng Anh và xuất bản bằng tiếng Anh vào năm 1924, trong đó đã lược đi rất nhiều nội dung có liên quan đến thuật luyện kim bí ẩn, ông cho rằng là vớ vẩn. Nhưng chính những nội dung này có thể giúp chúng ta hiểu được toàn diện về nguồn gốc và thực tiễn của những tư tưởng học của Hermes. Cuốn sách này đã được tái bản bởi Shambhala Press vào năm 1994.
Có rất nhiều học giả tin rằng luận thuật của Hermes đã có trước tất cả các hiền nhân người Do Thái, bao gồm cả Moses và Jesus. Cũng có người tin rằng, học thuyết đó là nguồn gốc cho những tư tưởng của Pythagoras và Plato sau này. Nhưng bất luận ra sao, luận thuật của Hermes là một trong những hệ thống tri thức sớm nhất về vũ trụ và sinh mệnh được ghi chép lại trong nền văn minh nhân loại lần này.
Hermes có một cái nhìn hoàn chỉnh về vũ trụ, ông có nhận thức rất sâu sắc về vũ trụ, sự sống bất tận, thời gian, Thần và người, điểm kết của thế giới, v.v. Dưới đây chỉ là một vài quan điểm của ông:
“Không có gì không phải là ý nguyện của Thần, đồng thời ông cũng sở hữu mọi thứ. Ý nguyện của ông luôn là mỹ hảo, là thiện.”
“Ông đã có mọi thứ mà mình mong muốn, và ông chỉ muốn những gì mình đã có.”
“Đó chính là Thần, vũ trụ là hình tượng của ông, thần là thiện, và vũ trụ cũng vậy.”
Đồng thời Hermes tin rằng, Thần là người tạo ra tất cả các sinh mệnh. Mà sinh mệnh một khi sinh ra, nó phải phù hợp với quy luật bất biến của vũ trụ (Luật vĩnh hằng, hay luật của Thần) thì mới có thể duy trì.
“Tiến trình của thời gian cũng hoàn toàn là do Thần quyết định”; “đang dựa theo quy trình đã định sẵn mà canh tân tất cả mọi thứ trong vũ trụ”; “tất cả đều nằm trong quá trình này, cho dù là trên trời hay là dưới mặt đất”.
“Thần không chịu sự hạn chế của thời gian, mà thời gian dưới các chủng các loại chế ước, đang tuần hoàn lặp đi lặp lại.”
Hermes cho rằng tư tưởng của con người là tiểu năng tiểu thuật, còn trí tuệ của Thần là thánh khiết, là vĩnh cửu. Trong đoạn thoại dưới đây, chúng ta có thể thấy thái độ của nhà tiên tri đối với mọi thứ mà ông nhìn thấy. Ông nhận thức sâu sắc về sự vĩ đại của vũ trụ và Thần, và sự hạn chế về năng lực của bản thân, vì vậy trái tim ông tràn đầy sự kính trọng và biết ơn đối với Thần.
“Những cảnh thiên đường mà con người chúng ta nhìn thấy, chính là suy nghĩ muốn xuyên qua màn sương tối đen, nhưng nó cũng chỉ có thể phù hợp với trạng thái tư tưởng của con người mà thôi. Năng lực của chúng ta, rất nhiều sự vật mà chúng ta nhìn thấy, đều hết sức nhỏ hẹp và hữu hạn, nhưng vừa vặn lại là cái chúng ta có thể thấy. Chúng ta thấp bé như thế đấy, còn những gì chúng ta đối diện lại to lớn phi thường.”
Từ đó không khó phát hiện, Hermes không hề giống như những triết học gia bình thường khác, lúc nào cũng phải tỏ ra “trầm ngâm suy nghĩ”, “nói có sách mách có chứng”. Cộng thêm việc bản tiếng Hy Lạp của cuốn Hermetica chứa rất nhiều nội dung về thuật luyện kim và các nội dung khác, cho thấy luận thuật của ông là lấy từ trải nghiệm thực tế và sự thăng hoa một cách có lý trí về nhận thức. Bao gồm cả dự ngôn của ông đối với tương lai dưới đây, cũng là bắt nguồn từ tầm nhìn của riêng bản thân ông, là cùng một mạch tư tưởng về quan hệ nhân quả và các học thuyết khác.
Ông đã gửi đến cho chúng ta một thông điệp rõ ràng trong lời dự ngôn của mình: Để khiến con người hướng sự chú ý đến Thần, tương lai sẽ có một đoạn thời gian mà thiên nhiên mất cân bằng, cuộc sống của con người không ổn định, và kết quả dẫn đến thế giới tâm linh của con người sụp đổ, xuất hiện chiến tranh, ôn dịch, bệnh tật, thảm họa tự nhiên, hạn hán và các chủng các dạng tai nạn khác.
“Sẽ không có ai tín ngưỡng tôn giáo, tôn giáo chỉ là nói suông. Trẻ em sẽ không còn tin vào tôn giáo, những gì còn lại chỉ là lòng thành kính đối với tôn giáo được khắc trên đá. Con người lúc đó sẽ không còn hứng thú với tâm linh, họ sẽ không tin trên thế giới vẫn còn những thứ đáng để tôn trọng, vẫn còn những người hoặc vật đáng để sùng bái.
Mọi người sẽ nghĩ tôn giáo là gánh nặng của họ, họ sẽ coi thường tôn giáo. Họ sẽ không còn yêu thế giới này – kiệt tác vô song này của Thượng đế, và mọi người sẽ quên đi sự tồn tại của Thượng đế toàn năng. Sau khi lũ lụt, nạn đói, ôn dịch, bệnh tật mới, chiến tranh và các chủng các dạng thảm họa khác qua đi, tất cả các tôn giáo sẽ sụp đổ. Chỉ có khi đó, con người mới đem cặp mắt hướng về Thượng đế.”
“Bóng tối đã giành chiến thắng, con người sống không bằng chết, không ai đưa nổi cặp mắt lên nhìn trời. Những người thành kính với Thần bị coi là điên, những người không tôn kính Thần được coi là thông minh, những kẻ mất trí được coi là dũng sĩ, và những kẻ độc ác được coi là người tốt. Thậm chí nói đến linh hồn bất tử hoặc sinh mệnh vĩnh hằng, họ sẽ đều chế nhạo. Họ cho rằng đó là giả. Không ai tin hoặc nói về sự tôn trọng hay lòng thành kính đối với Thần.”
“Trái đất không còn ổn định, đại dương không còn tàu thuyền, bầu trời không còn các vì sao, các hành tinh sẽ không còn xếp theo quỹ đạo, trái cây trên mặt đất sẽ thối rữa, đất sẽ cằn cỗi, không khí sẽ ngừng lưu thông. Sau thảm họa, thế giới sẽ già đi. Không có tôn giáo, mọi thứ sẽ không tìm thấy quy luật, những điều tốt đẹp sẽ biến mất. Đây sẽ là một thời kỳ hỗn loạn, tất cả các giá trị đạo đức sẽ dần biến mất, suy nghĩ của con người sẽ đầy tà ác và bóng tối sẽ bao trùm tâm hồn chúng ta, vì vậy người ta cũng sẽ không nhận ra sai lầm của họ.”
“Một xã hội méo mó mới sẽ sinh ra, dẫn tinh thần của con người đi tới hỗn loạn. Suy nghĩ, lời nói và việc làm của họ không còn tình yêu mà tràn đầy ích kỷ. Người ta sẽ tuyệt vọng theo đuổi cuộc sống vật chất, và sự theo đuổi này sẽ tách họ ra khỏi thế giới tâm linh. Một triều đại đen tối sẽ ra đời. Mọi người sẽ bị cai trị bởi những chính trị gia xấu xa, hủ bại và ích kỷ, những người chỉ quan tâm đến tiền bạc và quyền lực. Thế giới tự nhiên sẽ mất đi cân bằng. Đại nạn sẽ đến, con người sẽ gieo gió gặt bão.”
“Khi tất cả những điều này xảy đến, một vị thượng sư, một người cha, cũng là Thượng đế, vị Thần sáng lập chí cao vô thượng, sẽ đến để sửa chữa tất cả điều này. Ông sẽ kéo những con người đi sai đường đó trở lại. Lũ lụt, hỏa hoạn, chiến tranh, ôn dịch sẽ xuất hiện, nhưng cuối cùng bị thanh trừ sẽ là tà ác.
Như thế, toàn bộ vũ trụ sẽ khôi phục lại trạng thái ban đầu, thế giới sẽ lại có những thứ đáng để tôn thờ và kính trọng. Con người sẽ yêu quý, tán dương, chúc tụng chư Thần. Vũ trụ mới sẽ được sinh ra. Tất cả mọi thứ đều được trùng tổ lại, biến thành mỹ hảo và thần thánh. Đây là mong muốn của Thượng đế. Ông sẽ bằng ý chí của mình, xây dựng lại con đường tâm linh đúng đắn cho thời đại này.”
Minh Huy (Theo Secretchina)