Sau khi Gia Cát Lượng chết, Lưu Thiền vì sao vẫn có thể làm Hoàng đế 30 năm?
Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lưu Thiền vẫn có thể tiếp tục trị vì Thục Hán trong 30 năm. Chỉ riêng việc có thể duy trì vương quyền trong suốt thời gian dài như vậy mà không xảy ra đại loạn gì lớn, có thể thấy Lưu Thiền vốn không phải hồ đồ như trong sử sách đã viết.
Lưu Thiền, tên mụ A Đẩu, là con trai cả của Lưu Bị thời Tam Quốc. Năm 223, Lưu Bị bệnh mất, Lưu Thiền lên ngôi, sử sách gọi là Lưu Hậu Chu, lãnh đạo nước Thục 41 năm. Trong cuộc đời nắm quyền lâu dài của Lưu Thiền, “quý nhân” thật sự không thiếu, trước có Gia Cát Lượng cúc cung tận tụy, sau có những nhân tài như: Tưởng Uyển, Phí Huy, Khương Duy,… phò trợ. Trong số các nhân vật xuyên suốt từ đầu đến cuối trong bộ tiểu thuyết của La Quán Trung, hình tượng của Lưu Thiền trước sau là một người nắm quyền tầm thường vô dụng nhất, thậm chí có người còn gọi ông là “hôn quân vong quốc”.
Vậy một người đần độn như vậy liệu có thế ngồi ở đế vị trong suốt 41 năm hay không? Thiết nghĩ, Lưu Thiền dẫu không phải là bậc tài trí mưu lược kiệt xuất, thì cũng không thể nói là hôn quân mười phân vẹn mười được. Cùng là Hậu Chủ (vị hoàng đế sau cùng) như nhau, Lưu Thiền không nên được xếp vào hàng vô dụng nhất. Hậu Chủ Nam Đường Lý Dục nếu không phải là biết viết mấy câu thơ, thì ông ta ngay cả một nửa của A Đẩu cũng không sánh bằng. Chỉ là sống cùng với những ngôi sao chói lọi như Lưu Bị, Gia Cát Lượng, thì Lưu Thiền dẫu có ánh hào quang thì cũng không thể tỏa sáng cho được.
Lưu Thiền có thể lãnh đạo nước Thục Hán 41 năm, hiển nhiên cũng có chỗ hơn người của ông.
Những ai đã từng đọc qua lịch sử Trung Quốc đều biết rằng, những vị hoàng đế sau cùng của mỗi một triều đại Trung Quốc, gần như toàn bộ đều là hoang dâm vô đạo, chính trị thối nát, quan lại chuyên quyền, chiến tranh không dứt, khởi nghĩa liên miên, dân chúng lầm than chẳng còn đường sống. Nhưng Lưu Thiền lại không học theo họ.
Theo ghi chép trong “Tam Quốc Chí”, Lưu Bị trước lúc lâm chung đã căn dặn Lưu Thiền: “Mọi chuyện con hãy nghe lời thừa tướng, coi ông ấy như cha”. Khi Gia Cát Lượng còn sống, Lưu Thiền coi Khổng Minh như cha, hết thảy mọi việc đều không muốn can thiệp, trên cơ bản đều là “cứ nghe theo thừa tướng mà làm”. Dẫu cho bản thân luôn có thành kiến đối với việc Gia Cát Lượng dốc hết binh lực đi chinh phạt phương Bắc, cũng đều giấu ở trong lòng, chứ không nói ra. Ông tiếp thu đầy đủ và nghiêm khắc làm theo lời dạy của Lưu Bị, tôn trọng đối với bề trên. Quan trọng hơn cả là ông đã liên kết được những quần thần, không tạo nên tranh chấp nội bộ, duy trì sự ổn định trong nhóm quần thần. Vậy nên suy cho cùng thì người được lợi ích thiết thực sau cùng vẫn là bá tánh thiên hạ.
Rất nhiều người khi bình phẩm Tam Quốc cũng đều cho rằng vị A Đẩu này thật sự rất thông minh: “Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lưu Thiền lập tức phế bỏ chế độ thừa tướng, lệnh cho Tưởng Uyển chủ quản hành chính, lệnh cho Phí Huy chủ quản quân sự; đem quyền lực ban đầu vốn nằm trong tay Gia Cát Lượng chia thành 2 phần, để cho hai người tự quản lẫn nhau. Sau khi Tưởng Uyển mất, Lưu Thiền kiên quyết tự mình nắm quyền, đây đều không phải là hành vi của kẻ nhược trí”. Do vậy, cũng chính là không khó lý giải nguyên nhân vì sao sau khi Gia Cát Lượng mất, bá tánh và quan lại nước Thục dâng sớ yêu cầu các nơi xây miếu tưởng niệm, Lưu Thiền lại một mực không nhận lời.
Khi Lưu Thiền có lối sống sa đọa, học giả Chu Tiêu và lão thần Đổng Doãn dâng thư can gián, Lưu Thiền nhiều nhất cũng chỉ là không thể làm gì được, chứ không phải là trong một phút giận dữ mà đại khai sát giới. Hậu Chủ Lưu Thiền có thể là một trong số các hoàng đế khai đao ít nhất đối với đại thần trong suốt các triều đại lịch sử Trung Quốc, điểm này thật sự rất khó có được.
Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, Lưu Thiền vẫn có thể tiếp tục lãnh đạo Thục Hán trong 30 năm, nghỉ ngơi lấy sức, dùng đạo vô vi mà trị nước. Chỉ riêng việc có thể duy trì vương quyền trong suốt thời gian dài như vậy mà không xảy ra đại loạn gì lớn, có thể thấy Lưu Thiền vốn không phải hồ đồ như trong sử sách đã viết.
Năm 263, khi tam lộ đại binh nhà Ngụy đến bao vây dưới thành, Lưu Thiền đã chọn đầu hàng. Lưu Thiền tuy hèn yếu nhu nhược, hổ thẹn với liệt tổ liệt tông, nhưng nhìn từ một góc độ khác, hành động này của Lưu Thiền cũng đã giúp người dân Thục Hán tránh khỏi bể khổ của nạn chiến tranh.
Trong thời gian đầu hàng nước Ngụy, Lưu Thiền đã lưu lại điển cố “Lạc bất tư Thục” (vui quá không còn nhớ đến nước Thục nữa) khiến cho người đời chê cười. Làm một đời quân vương, thiết nghĩ Lưu Thiền dẫu cho có hồ đồ hơn nữa cũng không thể ngu xuẩn đến bước này được. Lưu Thiền thông qua trình độ ngụy trang cao siêu khiến cho Tấn công Tư Mã Chiêu buông lơi cảnh giác. Dẫu cho “người khôn giữ mình” tránh được họa sát thân, nhưng con người vốn không phải là sắt đá, đằng sau ngụy trang giả tạo ấy, mỗi khi Lưu Thiền nhớ nghĩ đến vong linh của người cha ở Tây Thục lại biết bao lần nhớ Thục mà chảy nước mắt. Nỗi đau trong lòng ấy có mấy ai hiểu được? Sau 8 năm đầu hàng nhà Ngụy, Lưu Thiền mất, hưởng thọ 65 tuổi.
Trong Tam Quốc, nước Thục do Lưu Thiền lãnh đạo cứ mãi ở vào thế yếu. Tuy vậy trong suốt 41 năm, Lưu Thiền có thể khéo dùng người tài, chính quyền ổn định, coi nhẹ sĩ diện mà coi trọng hiện thực, giúp cho người dân tránh khỏi cảnh lầm than của chiến tranh, đây lẽ nào lại là một A Đẩu đần độn được hay sao?
Tiểu Thiện, dịch từ secretchina.com