Phật Di Lặc và Messiah: Cứu Thế Chủ thời mạt kiếp (Phần 2)
Metteya = Maitreya (Phật Di Lặc). Thánh tăng Đường Tam Tạng xưa đã chỉ rõ cách gọi “Di Lặc” là dịch sai, lẽ ra phải dịch theo đúng phát âm thành “Mai Lợi Da”, tức là trùng khớp với cách phát âm khi gọi Đức Messiah (Chúa Cứu Thế) của phương Tây.
Thần tại cõi người
Trong Kinh Thánh, cho dù là Tân Ước hay Cựu Ước, đều tiên tri rằng Cứu Thế Chủ Messiah sẽ tới vào thời khắc cuối cùng của nhân loại. Theo truyền thuyết tôn giáo thì trước khi Cứu Thế Chủ Messiah tới nhân gian, một dấu hiệu là người Israel phục quốc, sau đó người ta có thể nhìn thấy Cứu Thế Chủ Messiah.
Sau khi đại chiến thế giới thứ II kết thúc, người Israel sau khi trải qua mấy nghìn năm lưu lạc trên thế giới cuối cùng đã phục quốc. Ngày 13 tháng 5 năm 1948, trong đại hội Do Thái, Jerusalem đã tuyên bố bản tuyên ngôn rằng “Israel phục quốc”. Tuy xã hội chủ lưu Tây phương là Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, v.v… còn Israel là Do Thái giáo, trong lịch sử vốn cực kỳ chống báng nhau, nhưng lạ thay trong hơn nửa thế kỷ qua, xã hội chủ lưu Tây phương lại quay sang ủng hộ giúp đỡ Israel. Về điểm này, họ đã hoàn toàn gác sang một bên sự phân tranh tôn giáo trong lịch sử đã kéo dài suốt mấy ngàn năm. Điều kỳ lạ đó đã xảy ra đúng theo lời tiên tri xa xưa ấy.
Tại Đông phương cũng có ghi chép về một tín hiệu trọng đại báo hiệu Đức Maitreya (Phật Di Lặc – Chuyển Luân Thánh Vương) hạ thế. Quyển 8 Kinh Phật «Huệ Lâm Âm Nghĩa» ghi rõ: “Ưu Đàm Bà La hoa là loài hoa linh dị mang điềm lành, tức Thiên hoa, trên thế gian không có. Khi Như Lai hạ thế, Kim Luân Vương xuất hiện ở thế gian, thì nhờ đại phúc đức của Ngài mà xuất hiện loài hoa này”.
Kinh Phật «Vô Lượng Thọ» cũng ghi lại như sau: “Ưu Đàm Bà La hoa là dấu hiệu báo điềm lành”. Còn theo quyển 4 kinh «Pháp Hoa Văn Cú» thì: “Ưu Đàm hoa, có nghĩa là may mắn linh thiêng. Ba nghìn năm mới nở một lần, khi nở là Kim Luân Vương xuất hiện”.
Kể từ năm 1992, tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Australia, các tiểu bang nước Mỹ, Canada, các tỉnh ở Trung Quốc,… người ta liên tục phát hiện hoa Ưu Đàm Bà La thánh khiết khai nở. Chúng ta có thể tìm thấy trên mạng và chiêm ngưỡng phong thái cao quý thánh khiết của loài hoa này. Hoa Ưu Đàm không có rễ, không có lá, không có nước, không có đất; có thể mọc trên thủy tinh, sắt thép, tượng Phật, lá cây, hộp giấy và cả băng keo, có hoa mọc hơn 1 năm nhưng vẫn rất tươi đẹp. Các nhà thực vật học đã tận mắt chứng kiến, và đều cho biết rằng tự cổ chí kim họ chưa từng gặp loài hoa nào kỳ lạ đến như thế. Năm nay (2011), theo Phật ký là năm 3038, hoa Ưu Đàm Bà La đã nở rộ tại nhiều nơi trên thế giới, hoàn toàn trùng khớp với lời Ngài Thích Ca đã giảng xưa kia.
Cách tạo hình tượng và các tiên tri thể hiện rõ thiên cơ
Trong dân gian Trung Quốc vẫn bảo tồn một phương thức tạo hình Đức Maitreya: một pho tượng Phật tươi cười, vây quanh có 18 đứa trẻ, nô đùa vui vẻ, được gọi là “Thập bát tử Di Lặc”. Thế nhưng “Thập bát tử” (十八子) hợp thành một chữ “Lý” (李), tức là báo trước Đức Maitreya hạ thế truyền Pháp độ nhân vào thời mạt kiếp với phàm thân có họ là “Lý”. Truyền thuyết và cách tạo tượng “Di Lặc thập bát tử” này đã được truyền lại mãi cho đến ngày nay.
Tiên tri «Cách Am Di Lục» của Hàn Quốc viết rõ: “Hà vi Thánh nhân, Mộc tử tính thị” (Thánh nhân là ai, họ là Mộc Tử); “Mộc Tử” (木子) ghép thành chữ “Lý” (李). Tiên tri này cũng nói rõ vị Thánh nhân ấy là “Vua của các vua” trên thiên thượng, tức là Pháp Luân Thánh Vương, lần này giáng phàm nhân gian gọi là Đức Maitreya (Phật Di Lặc).
Lưu Bá Ôn cũng từng tiên tri trong dự ngôn «Thôi Bi Đồ» rằng: “Lúc ấy Di Lặc Phật thấu hư đến Nam Hạp Phù Đề thế giới trung thiên tại Trung Quốc Kim Kê mục, phụng Ngọc Thanh thời niên kiếp tận, Long Hoa hội Hổ, Thỏ chi niên đến trung thiên, nhận Mộc Tử làm họ”. Nghĩa là Phật Di Lặc tương lai sẽ chuyển sinh đến Trung Quốc vào năm Thỏ, cụ thể là giáng sinh tại vị trí “mắt Gà Vàng” (Kim Kê mục) trên bản đồ Trung Quốc (chỉ thành phố Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm), lấy “Mộc Tử” (Lý) làm họ.
Ngày 13 tháng 5 năm 1951, tức ngày mùng 8 tháng Tư theo Nông lịch, người sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí đản sinh tại thành phố Công Chủ Lĩnh, tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc, thuộc Thỏ, ngày này chính là “Lễ Phật đản” trong Phật giáo. Đồng thời ngày này cũng chính là ngày thứ 50 tính từ Lễ Phục Sinh năm 1951, gần như là “Lễ Thánh Linh giáng lâm” trong Cơ Đốc giáo. Tới đây, một số người thông hiểu thiên cơ đã biết được vì sao “Lễ Phục Sinh”, một ngày lễ trọng yếu của tôn giáo Tây phương lại được gọi là “Easter”, tức “Người phương Đông”. Đồng thời, cũng hiểu vì sao người ta vẫn duy trì tập tục cổ xưa là Thỏ Phục Sinh (bởi vì Thánh nhân giáng sinh năm Mão – Thỏ) và trứng Phục Sinh (trứng gà – liên quan tới Kim Kê Trung Quốc) để kỷ niệm hoạt động này. Vào Lễ Giáng Sinh ở phương Tây, nhà nào cũng chuẩn bị và trang trí một cây thông Noel (cây gỗ nghĩa là Mộc Tử).
Nostradamus người Pháp trong tác phẩm «Các Thế Kỷ» đã tiên tri chính xác rất nhiều nhân vật và sự kiện trọng đại phát sinh tại các nơi trên thế giới mấy trăm năm qua, trong đó Các Thế Kỷ II, khổ thơ 29 đã dự ngôn minh xác về Cứu Thế Chủ cứu độ chúng sinh tại nhân loại vào thời mạt thế.
Theo Kinh Phật ghi lại, Chuyển Luân Thánh Vương cũng như Đức Phật, có 32 tướng, 7 bảo; Ngài không dùng vũ lực, mà dùng chính nghĩa để xoay chuyển bánh xe Chính Pháp, cuối cùng trở thành vị Vua lý tưởng của thế giới. Bất kể theo Phật giáo, Cơ Đốc giáo, Nho giáo, chỉ cần khoan dung với mọi người, thì đều có thể có duyên gặp Chuyển Luân Thánh Vương. Thế nhưng việc tốt hay gặp trắc trở, Thần đến thật rồi, mà con người vẫn mê hoặc không tỉnh.
Thế nhân trong mê không tỉnh
Theo tục truyền, Bố Đại hòa thượng là hóa thân thế tục của Phật Di Lặc. Vào ngày 2 tháng 3 năm Trinh Minh thứ 2 triều Hậu Lương (năm 916 SCN), trước khi tạ thế, ông lưu lại bài kệ khắc trên bia đá trong chùa Nhạc Lâm như sau: “Di Lặc chân Di Lặc, Phân thân thiên bách ức, Thời thời thị thời nhân, Thời nhân tự bất thức” (Di Lặc ấy là Di Lặc thật, Phân thân hàng trăm nghìn vạn, Lúc nào cũng chỉ bảo cho người đương thời, Nhưng người không tự biết).
Bài kệ trước khi viên tịch của Bố Đại hòa thượng đã nói rõ từ cả nghìn năm trước: khi Đức Maitreya tương lai hạ thế độ nhân, đã có rất nhiều dấu hiệu về đủ mọi phương diện trên thế giới để đánh thức con người, giúp con người hiểu ra, nhưng họ vẫn không tỉnh ra được.
“Phúc âm John” trong Kinh Thánh viết (1:10-11): “Ngài đã vào thế gian, thế gian đã được tạo nên bởi Ngài, nhưng thế gian chẳng nhận biết Ngài. Ngài đã đến với dân Ngài, nhưng dân Ngài không tin nhận Ngài”. Kinh Thánh còn nói khi Cứu Thế Chủ giáng thế cứu người, ánh sáng của Ngài sẽ chiếu rọi thế giới trong nháy mắt, tựa như tia chớp từ trời tỏa sáng không trung. Thế nhưng người đời không nhận Ngài là Đấng Cứu Thế, lại để Ngài phải chịu khổ không ít, thậm chí còn bị thế nhân mê ngủ gièm pha.
Trong «Các Thế Kỷ» có một bài thơ nổi tiếng minh xác về thời gian, đó là Các Thế Kỷ X, Khổ 72 tiên tri về sự kiện này:
Vào năm 1999, tháng 7,
Để Đại vương Angoulmois phục sinh,
Đại vương Khủng bố sẽ từ trên trời xuống,
Đến thời trước và sau khi Mars thống trị thiên hạ,
Nói là để có cuộc sống hạnh phúc cho mọi người.
Ngày 20 tháng 7 xác thực là một ngày đặc biệt, «Các Thế Kỷ» đã tiên tri mấy trăm năm trước là Giang Trạch Dân, kẻ chống Chúa, sẽ phát động cuộc đàn áp toàn diện đối với những người tu luyện Pháp Luân Đại Pháp. Cuộc đàn áp gây bao đổ máu, phỉ báng lừa dối, gây ra đại nạn tại Trung Nguyên, làm mê hoặc con người khiến họ lạc vào con đường phạm tội. Đây chính là trận đại chiến Thiện – Ác cuối cùng Armageddon mà “Khải Huyền” nhắc tới, đến nay đã 12 năm. Đối diện với ma nạn, vô số Thánh đồ đã kiên nhẫn giảng rõ sự thật để thực hiện sứ mệnh cứu độ chúng sinh. ĐCSTQ ngang nhiên chống lại Phật Pháp “Chân-Thiện-Nhẫn” của vũ trụ, đã rơi vào tử lộ. Câu sấm “Cửu thập cửu niên thành đại thác” (Năm 99 thành sai lầm lớn) của bài tiên tri «Thôi Bối Đồ» triều Đường đã trở thành sự thực.
Cuối cùng hướng về Thần
Kinh «Trường A Hàm», quyển 18 viết: “Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế… thời các tiểu vương tại Đông phương thấy Đại Vương, đều dâng châu báu quy thuận. Ngoài ba phương Nam, Tây, Bắc đều như vậy”.
“Khải Huyền” của Kinh Thánh viết (7:9-10): “Sau những việc đó, kìa, tôi thấy một đám đông rất lớn, không ai có thể đếm được, từ mọi quốc gia, bộ lạc, dân tộc, và ngôn ngữ đứng trước ngai và trước Ngài; ai nấy đều mặc áo choàng trắng và tay cầm cành thiên tuế. Họ cùng nhau cất tiếng hô vang rằng, `Ơn cứu rỗi thuộc về Đức Chúa Trời chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và thuộc về Ngài’.”
Cho dù phải trải qua bao nhiêu ma nạn, cuối cùng con người cũng đều hướng về Thần; những người này đến từ các phương, các nước, các dân tộc. Kinh Phật và Kinh Thánh đều nhất trí khi miêu tả điểm này.
Thiên – Địa – Nhân mới
Sau khi Cứu Chủ giáng thế cứu vãn chúng sinh, thế gian sẽ chào đón Thiên – Địa – Nhân mới. Nghĩa là vũ trụ mới, trái đất mới, và nhân loại mới.
Kinh «Di Lặc Hạ Sinh» viết: “Quốc thổ đều phú thịnh, vô phạt vô tai ách; nam nữ đều do thiện nghiệp sinh. Đất không cây gai, chỉ sinh cỏ xanh, thuận theo gót chân, mềm như tơ tằm. Tự nhiên xuất lúa thơm, mỹ vị đều sung túc. Cây cối sinh y phục, màu sắc đều trang nghiêm; cây cao ba tòa nhà, hoa quả thường dư dật. Lúc ấy người trong nước, đều thọ tám vạn năm, không có khổ bệnh tật, tâm trí thường an lạc”.
“Isaiah” của Kinh Thánh viết (65:19-20): “Tiếng than khóc sẽ không còn nghe trong thành ấy; Tiếng khóc than sẽ vĩnh viễn không còn. Trong thành ấy trẻ thơ sẽ không chết yểu; Không người già nào không hưởng trọn tuổi thọ của mình; Vì ai trăm tuổi mà qua đời sẽ bị xem là chết yểu; Người chưa được bách niên mà phải lìa đời sẽ bị xem là bị nguyền rủa”. “Isaiah” (65:23-25): “Chúng sẽ không lao động một cách luống công; Chúng sinh con ra chẳng phải để chuốc lấy âu sầu, Vì con cháu chúng sẽ là dòng dõi của những người được Chúa ban phước, Và dòng dõi của chúng tiếp theo chúng nữa. … Chúng sẽ không gây tổn hại hay phá hoại trong khắp núi thánh của Ta,’ Chúa phán vậy”. “Khải Huyền” của Kinh Thánh cũng miêu tả tân Thiên, tân Địa như sau (22:2): “Giữa quảng trường của thành, nơi rẽ ra của hai nhánh sông, có một cây sự sống sinh trái mười hai đợt, mỗi tháng một đợt, và lá của cây ấy được dùng để chữa lành các dân”.
Bởi vậy, sau khi trải qua trận đại chiến Thiện – Ác này, những người có đạo nghĩa, duy hộ Phật Pháp sẽ được lưu lại và có phúc. Họ sẽ trường thọ an lạc, không gặp tai ương, hoa quả sung túc, mỹ vị phong phú, chung sống hòa thuận, không tranh không đấu, nhân loại từ đó tiến nhập vào kỷ nguyên mới.
Chú thích:
Metteya = Maitreya (Phật Di Lặc). Thánh tăng Đường Tam Tạng xưa đã chỉ rõ cách gọi “Di Lặc” là dịch sai, lẽ ra phải dịch theo đúng phát âm thành “Mai Lợi Da”, tức là trùng khớp với cách phát âm khi gọi Đức Messiah (Chúa Cứu Thế) của phương Tây.
Theo Chánh Kiến