Huyền Không Tự – Chùa cổ nghìn năm sừng sững giữa đất trời
Như một chứng tích cho tín ngưỡng trung kiên của người tu hành xưa nay đối với Thần Phật, Huyền Không Tự, ngôi chùa treo trên không qua nghìn năm dải dầu mưa gió vẫn hiên ngang giữa núi rừng, vững chải trước trời đất.
“Phi các đan nhai thượng,
Bạch vân kỉ độ phong。
Thận lâu nghi hải thượng,
Điểu đạo thiết vân trung。”
Tạm dịch:
“Lầu đỏ treo vách núi
Mây trắng phủ bao lần
Ngỡ lầu sò trên biển
Chim bay vạch đường mây.”
Huyền Không Tự tọa lạc trên núi Hằng Sơn, tỉnh Sơn Tây là một ngôi chùa treo lơ lửng trên vách núi dựng đứng, không có nền móng nghìn tấn mà lấy gỗ làm cột trụ chống đỡ. Ước tính ngôi chùa đã trải qua hơn 1400 năm mưa gió và biến động, tuy nhiên cho đến nay, Huyền Không Tự vẫn hiên ngang sừng sững giữa trời. Chùa được xây vào cuối đời vương triều Bắc Ngụy, cách mặt đất khoảng 50m, là tòa kiến trúc kết cấu bằng gỗ dựng trên vách núi cổ nhất còn sót lại. Tạp chí Times của Mỹ từng bầu chọn ngôi chùa này là một trong 10 kiến trúc bí ẩn nhất thế giới.
Nhìn từ xa, chùa Huyền Không như một bức điêu khắc tinh xảo được trạm khắc vào vách đá cao hiểm trở. Khi nhìn gần, vị thế ngôi chùa tựa như muốn bay lên trời. Toàn ngôi chùa gồm có 40 gian điện đường, khung cảnh bên ngoài hùng tráng, kì vĩ xứng danh “Tự viện trên không”.
Chốn tu hành
Theo dân gian lưu truyền, Huyền Không Tự được hòa thượng triều đại Bắc Ngụy là Liễu Nhiên xây dựng nên. Đây là thời kì Phật giáo phát triển rực rỡ tại Trung Quốc. Vì chùa Huyền Không được xây dựng không theo quy luật thông thường, do đó nơi đây không dành cho người tu luyện thiếu ý chí.
Lối đi nối giữa các gian điện thờ có một số là cầu treo trên không, số khác là lối đi kín xếp theo kiểu hành lang gấp khúc, thêm nữa là bậc đá trên vách núi, tất cả hình thành nên những lối đi quanh co tựa mê cung. Trên những lối đi ấy, người trước tựa như đạp trên đỉnh đầu người phía sau mà đi, đôi khi bước đi tạo ra âm thanh “ken két”, nhìn xuyên qua khe hở giữa các tấm ván là thấy vực núi sâu trăm trượng khiến ai chưa quen đôi khi phải giật mình kinh sợ.
Tuy nhiên, đối với hòa thượng chuyên tâm tu hành thì điều này không có gì là đáng sợ. Là người chân tu thì lòng kiên trung đối với Phật Pháp đã khiến họ xem nhẹ sinh tử, “Hữu Phật nhi tâm định” (có Phật trong tâm lập tức lòng an định).
“Huyền Không Tự” là chứng nhân cho chính tín đối với Phật của người tu luyện. Nếu không có chính tín ấy thì làm sao có thể dựng nên được ngôi chùa vững chải nghìn năm trên vách núi dựng đứng.
Ngay cả khi người đời sau đến tham quan, tự thân trải nghiệm, cũng không có cảm giác lung lay, ngược lại còn cảm nhận được sự vững chắc trang nghiêm bất động như núi, ‘huyền không mà thực tại, ở độ cao nguy hiểm mà an định’.
Cảnh quan hùng vĩ
“Huyền Không Tự” tọa lạc nơi địa thế được mệnh danh “Nhân Thiên Bắc Trụ” (cột trụ phía Bắc kết nối con người với đất trời) hay “Tuyệt Tắc Danh Sơn” (Ngọn núi nổi tiếng hùng vĩ với cửa ải hiểm yếu), đó chính là “Bắc Nhạc” Hằng Sơn. Dưới chân núi là eo sông Kim Long với chiều rộng khoảng 1.500 m len lỏi giữa rặng núi Thúy Bình Phong gồm hai vách núi thẳng đứng bao phủ một màu xanh biếc. Tương truyền, 4.000 năm trước, vua Thuấn Đế tuần du phương Bắc nhìn thấy thế hùng vĩ của Hằng Sơn, liền phong hiệu là “Bắc Nhạc” (ngọn núi to lớn ở phương Bắc).
Vào thời đại nhà Đường, Khai Nguyên năm thứ 23 (năm 735), Lý Bạch sau khi đến Huyền Không Tự du lãm, đã viết lên vách đá 2 chữ “Tráng quan” (Quan cảnh hùng tráng). Trong “Du Hằng Sơn Kí” của Từ Hà Khách triều Minh viết, “Đi vào thì không chỉ lầu gác cao thấp, lan can uốn khúc, đẽo trên vách núi thẳng đứng, cảnh quan hùng vĩ trong thiên hạ tô điểm cho chùa, mà còn là thắng cảnh cho những người thích du ngoạn. Giống như kết cấu đá nham thach, nhưng lại không bị lệ thuộc vào đó”.
Công trình tinh xảo trên không
Người xưa có câu: “Lầu cao xây trên đất bằng”, nhưng Huyền Không không theo nguyên lý này, ngôi chùa được xây lơ lửng trên không, đây nhất định có đạo lý của trời đất.
Việc dùng gỗ làm xà nhà của Huyền Không Tự được gọi là “Thiết Biển Đam” (đòn gánh bằng sắt), đây là chỉ loại gỗ Thiết Sam đặc sản địa phương gia công thành hình xà gỗ, đóng sâu vào trong đá nham thạch. Theo dân gian, cây xà gỗ tẩm qua tùng dầu (1 loại dầu triết xuất từ cây Du Đồng) có tác dụng chống mục nát.
(Chú thích: Tùng dầu là loại dầu được lấy từ cây Du Đồng (Euphorbiaceae)– loại gỗ chuyên dùng để đóng đàn, quả cây Du Đồng có dầu, ép lấy dầu dùng được. Loại cây này còn được gọi là Vông 桐)
Việc dựng nên từng xà gỗ cũng là công phu xưa nay hiếm có. Điểm đặt móng phải được tính toán chi li để bảo đảm khả năng chống đỡ toàn bộ ngôi chùa. Mỗi cột lại được chế tác tùy theo công dụng, cột trụ gỗ dùng để chịu sức nặng; cái khác dùng để cân bằng độ cao thấp của lầu gác; lại có cái để tăng trọng lượng, tất cả kết hợp mới phát huy tác dụng chống đỡ. Đây vốn là điều mà khoa học trước nay khó hình dung tới. Vì vậy từ xa, người ta gọi chùa Huyền Không là “ba cột đuôi ngựa treo trên không trung”.
Không gian bên trong chùa đa dạng nhưng khá chật hẹp, với 40 điện thờ lớn nhỏ, phòng lớn nhất chỉ có 36,4 m2, nhỏ nhất chưa tới 5 m2, cái thấp cái cao, có cái đối mặt nhau khoảng cách khá xa, có cái cao thấp trên dưới đối lập nhau, trong đối xứng mà biến hóa, trong phân tán rải rác mà có liên hệ, vừa không chỉnh tề làm một, lại không bừa bộn vô trật tự.
Hơn 80 bức tượng Thần Phật bên trong chùa Huyền Không được làm bằng đồng, gang, đất sét, đá, gỗ Boehmeria v.v..với hình thái cũng khác nhau. Trong đó, Lôi âm điện thờ tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, thân hình đầy đặn, tỷ lệ vừa phải, khuôn mặt tròn sống động, là bảo vật trân quý của chùa. Điện Tam Phật, thờ tượng Bồ Tát Vi Đà (phạn ngữ : Skanda, còn gọi là Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát) đúc bằng sắt, thân hình mạnh mẽ, thần thái uy vũ, áo mũ trau truốt tinh tế, xứng là kiệt tác nghệ thuât. Phía trên cầu treo và giữa vách núi là ba bức tượng Phật được tạc trên vách đá, dáng vẻ nhân từ, phong thái uy nghiêm, có thể được xem là công trình tinh xảo bậc nhất.
Ngàn năm phong sương mà trường tồn bất diệt
Huyền Không Tự nằm trong một lưu vực nhỏ tại đáy vực sâu hẻm núi, từ trên cao mà nhìn bộ phận đỉnh đá nham thạch rất giống như một chiếc ô, giúp cho ngôi chùa cổ tránh khỏi mưa gió xói mòn, lại có thể tránh khỏi đá nham thạch rơi xuống làm hư hại cấu trúc của chùa.
Trong khe núi chật hẹp ấy, thời gian để mặt trời chiếu sáng vào chùa một năm chỉ có 3 tháng, mỗi ngày bình quân không đến 2 tiếng đồng hồ, thế nên tác hại của ánh nắng được giảm thiểu. Bốn mùa thay đổi không ngừng, nhưng kết cấu của chất liệu gỗ vốn không bị sâu mọt, lại không bị mục nát, lại ở vị trí mà cho dù nước lũ tràn lên cũng không làm ngập nên phong sương nắng mưa không làm chùa suy xuyễn.
Lịch sử huyện Hỗn Nguyên từng ghi lại nhiều lần bị động đất, 50 năm gần đây nhất là phát sinh 3 lần động đất khoảng chừng trên dưới 6 độ Richter. Lần địa chấn năm 1989 là 6,1 độ Richter vào và năm 1992 là 5,6 Richter, Huyền Không Tự khi đó vẫn không chịu bất kỳ tổn thất nào. Trong khi Hỗn Nguyên có hơn vạn ngôi nhà bị phá hủy.
Có thể thấy rằng chùa Huyền Không là một nơi gió thổi không đến, mưa xối không vào, nắng cháy không được, đá vỡ không tới, nước ngập không qua, nhận được sự bảo hộ tu hành của Thần linh ở nơi sở tại, giúp cho ngôi chùa trải qua ngàn năm phong sương mà vẫn trường tồn bất diệt, kinh qua muôn người leo trèo mà không bị hủy.
Theo Đại Kỷ Nguyên