Vì sao các quốc gia Đông Á khó thân nhau?
empty
(Ảnh minh hoạ)
Trong một thập niên qua, các quốc gia Đông Á đã gây nhạc nhiên cho các nhà quan sát bởi mong muốn hợp tác cùng nhau, vì xét cho cùng đây là một khu vực nơi các mâu thuẫn lịch sử vốn ăn sâu. Nhưng các nhà quan sát không nên quá hi vọng: những kình địch hiện đại và mâu thuẫn lịch sử vẫn ngăn cản việc biến các thoả thuận thành sự hợp tác khu vực đích thực.
Trên báo chí, các tiến bộ dường như diễn ra nhanh chóng. Vào năm 2010, Trung Quốc, Australia và New Zealand đã thực thi các thoả thuận thương mại tự do với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), cho phép các nước tiếp cận ưu đãi vào thị trường của nhau. Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc cũng đang đàm phán một thoả thuận thương mại tự do. Thậm chí Trung Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan cũng đã ký kết một thoả thuận kinh tế nhằm giảm bớt các rào cản thương mại như hạn ngạch và thuế quan ở cả hai phía. Thương mại giữa Trung Quốc và Đài Loan đã đạt 128 tỷ USD vào năm 2011, tăng 13% so với năm trước đó, khi thoả thuận kinh tế có hiệu lực.
Nhưng sự kết nối các liên minh kinh tế của Đông Á bị gánh nặng bởi lịch sử và bị cản trở bởi những thoả thuận an ninh không hiệu quả. 3 điểm nóng lớn nhất của khu vực đã kéo dài cả thập niên, nếu không muốn nói là hàng thế kỷ, và giống như núi lửa – vẫn âm ỉ nhưng thỉnh thoảng “thức giấc” gây chết người. Ngoài các cuộc chiến tranh của Pháp và Mỹ tại Việt Nam, cuộc chiến toàn lực cuối cùng là Chiến tranh Triều Tiên, kết thúc 6 thập niên trước. Nhưng những tác động của nó vẫn còn đeo đẳng cho tới ngày nay khi Mỹ và Triều Tiên chưa từng ký kết một hiệp ước hoà bình và về mặt kỹ thuật vẫn đang trong tình trạng chiến tranh.
Tương tự như vậy, cuộc xâm chiếm của đế quốc Nhật tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và toàn bộ khu vực Đông Nam Á là nguyên nhân lớn nhất gây ra sự biến động tại châu Á trong thế kỷ 20. Thế chiến II vẫn còn tác động lớn về mặt chính trị tại châu Á hơn là tại Mỹ. Việc một thoả thuận quân sự Mỹ-Nhật bị huỷ hồi tháng 7 do tâm lý chống Nhật đeo đẳng tại Hàn Quốc đã chứng minh điều đó.
Nếu Nhật Bản bị đè nặng bởi gánh nặng lịch sử thì Trung Quốc cũng vậy. Sau khi Trung Quốc đánh đuổi đế quốc Nhật vào năm 1945, Mao Trạch Đông đã đuổi Tưởng Giới Thạch và những người theo chủ nghĩa dân tộc tới Đài Loan vào năm 1949, một hòn đảo mà Trung Quốc vẫn tuyên bố chủ quyền. Hồi tháng trước, Trung Quốc đã tuyên bố thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” tại Biển Đông. Động thái này đã gây lo ngại cho Đài Loan và 4 quốc gia khác vốn có tuyên bố chủ quyền chồng chéo tại vùng biển này. Tổng thống Philippines Benigno Aquino dường như đã nói hộ tất cả mọi người trong khu vực khi ông phát biểu rằng: “Nếu ai đó đi sân của bạn và nói rằng anh ta sở hữu nó, bạn có để yên không?”.
Trung Quốc, Nhật Bản và Đài Loan cũng có tranh chấp vì một quần đảo không người ở mà Trung Quốc gọi là Điếu Ngư còn Nhật Bản gọi là Senkaku. Vấn đề này đã đánh trúng tâm lý dân tộc chủ nghĩa trong số các quốc gia cùng tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo. Thị trưởng Tokyo Shintaro Ishihara hồi tháng 6 đã gợi ý một cách mỉa mai rằng một con gấu trúc sắp chào đời tại vườn thú Tokyo nên được đặt tên là Sen-Sen hay Kaku-Kaku.
Nhiều người có thể nghĩ rằng các quốc gia Đông Á, vốn ngày càng giàu có và thịnh thương, muốn tìm kiếm các đồng minh khu vực để giúp bảo vệ các lợi ích của nhau và bảo vệ chủ quyền. Nhưng đây là một khu vực của những bất ổn ngoại giao, và sự hồ nghi tiếp tục cản trở các thoả thuận có ích. Thật khó tin khi chỉ có một hiệp ước liên minh quân sự duy nhất trong khu vực, đó là giữa Trung Quốc và Triều Tiên, một thoả thuận “được gắn kết bằng máu” như Bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt từng miêu tả hồi năm 2009.
Tất nhiên, Mỹ cũng có các cam kết tương tự với một loạt quốc gia trong khu vực. Mỹ đã ký các thoả thuận quốc phòng chính thức với Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan và Australia và các quan hệ đối tác an ninh thân thiết (một bước thấp hơn liên minh) với Đài Loan, Singapore và Indonesia. Nhưng các thoả thuận này chưa được kiểm chứng kể từ Chiến tranh Triều Tiên.
Một hiệp ước quân sự duy nhất khác trong vùng là “Hiệp ước phòng vệ 5 nước lớn” giữa Australia, Anh, New Zealand, Malaysia và Singapore ký kết năm 1971. Năm quốc gia đã thống nhất tư vấn lẫn nhau trong trường hợp xảy ra sự gây hấn từ bên ngoài chống lại bán đảo Malaysia. Nhưng điều đó không có nghĩa là các quốc gia châu Á không tập trung vào quốc phòng: ngân sách quốc phòng đang gia tăng nhanh chóng. Chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc đã tăng gần gấp 3 lần trong 3 năm, các quốc gia Đông Nam Á đã tăng chi tiêu quốc phòng lên 13,5% trong năm 2011, và tổng chi tiêu ngân sách quốc phòng của châu Á sẽ vượt châu Âu lần đầu tiên trong năm nay. Điều đó chứng tỏ rằng các quốc gia châu Á ngày càng không thân thiết nhau.
ASEAN, tổ chức chính trị quan trọng tại khu vực Đông Nam Á, đang bị căng thẳng bởi sự lớn mạnh của Trung Quốc. Trong hội nghị thường niên lần gần đây nhất vào tháng 7 tổ chức tại Campuchia, ASEAN lần đầu tiên trong lịch sử đã không ra được tuyên bố chung, do sự can thiệp của Trung Quốc và tham vọng của nước này nhằm bảo vệ tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông.
Vai trò trung tâm mới của Trung Quốc với tư cách là đối tác thương mại lớn nhất của hầu hết các quốc gia trong khu vực đồng nghĩa với việc mặc dù các quốc gia láng giềng lo ngại về sức mạnh quân sự ngày càng gia tăng của Trung Quốc, các nước này đều không muốn gây rủi ro cho nền kinh tế nước mình khi đối đầu trực tiếp vơi Bắc Kinh. Nhưng Trung Quốc cũng cảm thấy dễ bị nguy hiểm. Zhu Feng, phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế tại Đại học Bắc Kinh, hồi năm 2009 từng miêu tả Trung Quốc là “một cường quốc đang nổi đơn độc” – miêu tả thích hợp cho một quốc gia mà liên minh duy nhất trong số 14 nước láng giềng là với Triều Tiên, mà từ liên minh đó nước này ngày càng trở nên bị cô lập.
Nhưng điều đó không có nghĩa là không có các điểm sáng. Indonesia, nền dân chủ mới trong khối ASEAN, đã dần từ bỏ sự ác cảm với Trung Quốc – trong nhiều thập niên cho tới tận năm 2000, nước này thậm chí còn cấm nhập khẩu các ấn bản được viết bằng tiếng Trung. Còn Myanmar đang tự do hoá. Và bất chấp việc Trung Quốc tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với Đài Loan, hai bên đã cải thiện quan hệ kể từ khi nhà lãnh đạo Mã Anh Cửu lên nắm quyền năm 2008. Nhưng sự thiếu tin cậy đồng nghĩa với việc một cuộc đụng độ khu vực có thể xoá sổ các thành tựu kinh tế.
An Bình
Theo Foreign Policy
(dantri.com.vn)