Trần Hưng Đạo và Trần Ích Tắc đều được sử sách mô tả là những con người nổi tiếng tài năng, hào hoa phong nhã bậc nhất. Nhưng điều gì đã làm nên một “Hưng Đạo Đại Vương”, và điều gì đã tạo nên một “Ả Trần”?
1. Học rộng, tài cao
Trần Hưng Đạo (1228 – 1300) là con trai thứ ba của Trần Liễu, gọi Trần Thái Tông bằng chú ruột, mẹ ông là Thiện Đạo quốc mẫu, một người trong tôn thất họ Trần.
“Đại Việt sử ký toàn thư” mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy mà ông sớm trở thành người đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ. Ông cũng khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu, họ đều là gia thần của ông, cũng có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Những người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự.
Trần Ích Tắc (1254 – 1329) là con thứ ba của vua Trần Thái Tông, em vua Thánh Tông, chú của vua Nhân Tông nhà Trần nước Đại Việt, tước hiệu là Chiêu Quốc Vương.
“Đại Việt sử ký toàn thư” mô tả như sau:
Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng (Trần Thái Tông), thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề gì không thông thạo; từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài như Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu… gồm 20 người, đều được dùng cho đời. Đến 15 tuổi, thông minh hơn người, làu thông kinh sử và các thuật…
Như vậy, Trần Hưng Đạo và Trần Ích Tắc đều là những nhân vật quyền cao, chức trọng, xét về tài năng và quyền lực thì đều không hề thua kém nhau. Nếu là thời bình thì cả hai hẳn đều là anh hùng. Nhưng sự biến động lớn của lịch sử là giặc Nguyên xâm lược Đại Việt đã khiến hai nhân vật đi theo hai con đường trái ngược nhau, để rồi một người tiếng thơm muôn thuở, một người tiếng xấu nghìn đời. Xét cho cùng cũng chỉ là thái độ trước chữ “tham”.
2. Hành xử tạo nên số phận
Trần Hưng Đạo: Làm trái lời cha, thuận đạo vua tôi
Năm 1237, Trần Hưng Đạo tên thật là Trần Quốc Tuấn, khi ông được 9 tuổi thì gia đình xảy ra biến động. Do chú ông là Trần Thái Tông lên ngôi và kết hôn đã lâu nhưng chưa có con nối dõi, Thái sư Trần Thủ Độ đang nắm thực quyền phụ chính ép cha ông là Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng) cho Trần Thái Tông dù bà đang mang thai với Trần Liễu được ba tháng, đồng thời giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa.
Trần Liễu phẫn hận nổi dậy ở sông Cái nhưng thất bại, Thái Tông nể tình anh em, lại mang oan khuất nên ban đất An Sinh, cải làm An Sinh Vương. Mang lòng hậm hực, Trần Liễu tìm khắp những người tài nghệ để dạy văn, võ cho Trần Quốc Tuấn mong sau này Trần Quốc Tuấn phục thù thay cha. Tháng 4 năm 1251, Trần Liễu ốm nặng. Lúc sắp mất, ông cầm tay Trần Quốc Tuấn, trăn trối rằng: “Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”.
Người xưa rất coi trọng chữ “trung” và “hiếu”, Nguyễn Đình Chiểu có câu:
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
(Lục Vân Tiên – Nguyễn Đình Chiểu)
Nhưng Trần Quốc Tuấn lại bị đặt vào tình thế hai chữ trung – hiếu chỉ làm tròn được một. Đứng trước vận nước lâm nguy, xã tắc giày xéo, ông quyết định đặt việc nước lên trên, một lòng trung thành, hết lòng phò tá các vua Trần đánh ngoại xâm cứu nước. Sau khi ba lần đánh thắng giặc Nguyên – Mông, danh chấn phương Nam, lại có trong tay hàng vạn binh sĩ, việc Hưng Đạo Vương muốn lên ngôi hoàng đế, đoạt lấy giang sơn hoàn toàn không khó. Nhưng ông một lòng trung với vua mà thiện giải mối thù của cha.
Vì có công lao lớn nên nhà vua gia phong Trần Hưng Đạo là Thượng quốc công, cho phép ông được quyền phong tước cho bất kỳ ai mà ông muốn, chỉ có tước hầu thì phong trước rồi tâu sau. Nhưng Trần Hưng Đạo chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi quân Nguyên vào xâm chiếm nước Việt, ông lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không cho họ tước lang thực, ông rất kính cẩn giữ tiết làm tôi.
Trần Ích Tắc: Chỉ vì chữ “tham” mà tiếng xấu muôn đời
Năm 1285, 50 vạn quân Nguyên Mông thế mạnh như chẻ tre, đánh bại nhiều đạo quân Đại Việt, kinh thành Thăng Long thất thủ, vua phải rời kinh đô. Nhiều quý tộc nhà Trần như Trần Kiện, Trần Lộng và đặc biệt là Trần Ích Tắc đã mang cả gia quyến, cùng một số người khác trong hoàng tộc, dâng thư hàng giặc.
Có lẽ Trần Ích Tắc tính rằng, quân Nguyên mạnh thế quét khắp châu Á, một nửa châu Âu, Đại Việt chắc chắn thua trận, vua tôi nhà Trần đều thành tù binh cả thì lấy ai trị tội làm phản của ông ta. Việc ông ta sớm ra hàng là một “nước cờ khôn ngoan”, bởi khi đó ông ta sẽ là người duy nhất có thể ngồi lên ngôi báu. Ông càng tin vào điều đó khi vừa hàng giặc đã được tướng giặc hứa sẽ tâu với hoàng đế nhà Nguyên cho làm An Nam quốc vương. Trần Ích Tắc không thể nào ngờ nổi, chỉ mấy tháng sau khi ông ta hàng giặc, đại quân Nguyên Mông đã bị đánh tan tác, Thoát Hoan tháo chạy về nước.
Hai con người tài năng, hai số phận trái ngược đã được lịch sử ghi lại. Điều khác biệt lớn nhất ở họ chính là tham vọng về mộng đế vương. Chính lòng tham đã đưa đẩy Trần Ích Tắc trở thành kẻ “bán nước cầu vinh”. Mặc dù khi làm quan cho nhà Nguyên, ông vẫn thường viết nhiều bài thơ mô tả lòng da diết nhớ quê hương đất nước:
Bao năm xa nước khói mây mờ,
Mình gởi nhung yên tạm viếng nhà.
Lớp lớp lâu đài trơ bóng nguyệt,
Hàng hàng châu thúy cách phương xa…
(Trở Về Nhà – Trần Ích Tắc)
Nhưng không ai nhớ ông là một quý tộc nhà Trần, học vấn uyên thâm nữa mà chỉ nhớ đến câu châm biếm: “Ả Trần” – Kẻ bán nước. Trong khi đó, Trần Hưng Đạo gác bỏ thù riêng, gác lại lời căn dặn của cha mình trước khi nhắm mắt để cùng với vua tôi nhà Trần chống giặc ngoại xâm, tránh cho dân tộc khỏi mối họa nô lệ. Đạo đức cùng với tài năng lỗi lạc đã đưa Trần Hưng Đạo trở thành anh hùng dân tộc, muôn đời thờ phụng.
Theo trithucvn.net