Lịch sử mà chúng ta biết đã sai? Ngày nay, nhà vật lý và hóa học người Anh Dalton được công nhận là người đã phát triển thuyết nguyên tử. Tuy nhiên, theo các văn tự cổ, một nhà hiền triết người Ấn Độ tên là Kashyap, đã phát triển nó từ 2.600 năm trước.
Nhà hiền triết Kashyap sinh năm 600 TCN tại Prabhas Kshetra (gần Dwaraka) ở bang Gujarat, Ấn Độ.
Một lần, trên đường hành hương đến thành phố Prayag, Kashyap đã nhìn thấy hàng nghìn người hành hương rải hoa và gạo ra khắp đường phố sau khi cúng lễ ở đền thờ. Kashyap bị thu hút bởi những hạt nhỏ bé và bắt đầu thu nhặt chúng.
Khi được hỏi tại sao ông lại thu nhặt các hạt gạo mà ngay cả ăn mày cũng không thèm đụng đến, Kashyap nói rằng mỗi hạt gạo dường như không có giá trị, nhưng hàng trăm hạt gạo có thể tạo nên bữa ăn cho một người, nhiều bữa ăn có thể nuôi sống cả một gia đình, và toàn bộ nhân loại được hợp thành từ nhiều gia đình khác nhau, do đó, ngay cả một hạt gạo cũng có tầm quan trọng không kém mọi của cải quý giá trên thế gian. Kể từ đó, mọi người bắt đầu gọi ông là ‘Kanad’, vì từ ‘Kan’ trong tiếng Phạn cổ có nghĩa là ‘hạt nhỏ nhất’.
Kanad đã theo đuổi niềm đam mê đối với thế giới vi mô không thể nhìn thấy này và với việc khái niệm hoá ý tưởng về hạt nhỏ nhất. Ông bắt đầu ghi chép các ý tưởng của mình và truyền dạy cho những người khác. Từ đó, mọi người bắt đầu gọi ông là ‘Acharya’ (thầy giáo) và cái tên Acharya Kanad (thầy giáo của các hạt nhỏ) đã ra đời từ đó.
“Mỗi vật thể đều được tạo thành từ các nguyên tử, và chúng sẽ kết nối với nhau để hình thành các phân tử”, Kanad.
Càng tìm hiểu về Kanad, bạn càng cảm thấy hứng thú hơn với cuộc sống và công việc của ông. Câu chuyện đằng sau cách ông nghĩ ra ý tưởng về một hạt không thể phân chia được nữa cũng rất thú vị.
Một ngày nọ, Kanad bước đi với ngũ cốc trên tay và nghiền chúng thành từng hạt nhỏ, đến khi ông nhận thấy không thể nghiền nhỏ hơn nữa vì chúng đã quá nhỏ. Lúc ấy ông nảy sinh ý tưởng về một hạt “không thể chia nhỏ hơn nữa” và gọi nó là ‘Parmanu’ hay ‘anu’ (nguyên tử).
Kanad cho rằng những vật chất vô hình này không thể cảm nhận được bằng bất cứ cơ quan nào của con người hay nhìn được bằng mắt thường, và khi kết hợp hai hạt Parmanu với nhau sẽ được một hạt ‘dwinuka’. Hạt này có tính chất tương tự 2 hạt Parnamu mẹ.
Kanad cho rằng có thể kết hợp các Parnmanu để tạo thành các dạng vật chất khác nhau. Ông cũng đưa ra ý tưởng kết hợp các hạt nguyên tử bằng nhiều phương thức khác để thay đổi tính chất hóa học trong các chất khác nhau, chẳng hạn như nhiệt. Ông đã nhuộm đen nồi đất và làm chín trái cây bằng hiện tượng này.
Ông cũng viết một cuốn sách có tiêu đề “Vaisheshik Darshan” và trình bày tất cả các nghiên cứu của mình trong đó. Ông được xem như “cha đẻ của thuyết nguyên tử”.
Kanad cũng là người sáng lập trường Triết học Vaisheshika, nơi ông chia sẻ những ý tưởng, kiến thức và giải thích các lý thuyết của mình về nguyên tử, bản chất của vũ trụ, cùng tất cả những gì xung quanh chúng ta, kể cả hữu hình hay vô hình.
Liên quan đến Kanad và những ý tưởng, lý thuyết cũng như khám phá của ông, AL Basham, cựu chiến binh người Úc và là nhà nghiên cứu Ấn độ học đã khẳng định rằng: “Kanad có thể lý giải về các cấu trúc vật lý của thế giới bằng những ý tưởng rất sáng tạo, và đa số chúng phù hợp với những khám phá của vật lý hiện đại”.
Tuy nhiên, Acharya Kanad không phải là nguồn kiến thức siêu việt duy nhất ở Ấn Độ cổ đại. Theo quan sát của Madhavan Nair, một trong những nhà khoa học nổi bật nhất Ấn Độ, một số bài thơ trong kinh Vệ đà có đề cập đến những hiện tượng tự nhiên mà giới khoa học phương Tây mới khám phá ra sau đó nhiều thế kỷ.
Madhavan Nair nhấn mạnh rằng kinh Vệ đà mô tả sự có mặt của nước trên Mặt Trăng, lực hấp dẫn, và những hiện tượng khoa học khác hàng thế kỷ sau mới được biết đến. Đó là một kho báu về tri thức, bao gồm những kiến thức về luyện kim, đại số, thiên văn học, toán học, kiến trúc, chiêm tinh học và nhiều lĩnh vực khác.
Theo ông Madhavan Nair, hiện là cựu lãnh đạo của cơ quan không gian Ấn Độ, vệ tinh Chandrayaan 1, quay xung quanh Mặt Trăng là nhờ một phương trình đã được nhà toán học, thiên văn học Aryabhata trình bày hàng ngàn năm trước.
Hồng Liên (t/h)