ADHD không chỉ có ảnh hưởng tới trẻ em mà còn ở người lớn đang gặp khó khăn để duy trì công việc hay giữ gìn mối quan hệ đang lung lay. Các nhà khoa học Mỹ gần đây đã phát hiện sự thay đổi Sinh hoá trong não bộ của những người bị rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) . Khám phá của họ rằng : những bệnh nhân như vậy có sự thiếu hụt một số proteine quan trọng giúp con người có cảm nhận được lời khen và thúc đẩy động lực.
Sinh viên thuộc trường đại học Hoang Dã Hollow đang nghỉ ngơi ăn uống trong một buổi cắm trại. Đây là trường học giúp các em mắc chứng ADHD có kỷ luật, nề nếp và trật tự xã hội. (Ảnh của Brendan Smialowski/Getty)
Đọc thêm : http://bocau.net/blog/bsgau/2800.html
Nghiên cứu này được thực hiện tại phòng thí nghiệm quốc gia Brookhaven, được đăng trên tạp chí của Hiệp hội Y khoa Mỹ. Các nhà nghiên cứu hi vọng kết quả nghiênc cứu có thể giúp tìm ra phương pháp chữa trị mới. Có nghiên cứu giả thiết rằng những đứa trẻ bị ADHD là những đứa bướng bỉnh, điều này đã có được giả định quá lâu. Nghiên cứu trước đó về ADHD đã phát hiện ra sự khác biệt ở khu vực trên não bộ đảm nhiệm vai trò kiểm soát sự chú ý và sự hiếu động. Những nghiên cứu này cho thấy ADHD có ảnh hưởng sâu sắc đến các khu vực khác trong não bộ.
Theo bác sĩ Nora Volkow :” Sự thiếu hụt Hệ thống củng cố trong não ( *) có thể giúp lý giải các triệu chứng lâm sàng của ADHD bao gồm sự thiếu tập trung và giảm mục đích hành vi, cũng như giải thích xu hướng sử dụng ma tuý và tình trạng béo phì trên bệnh nhân ADHD.
Các nhà khoa học đã so sánh hình ảnh chụp từ 53 bệnh nhân ADHD không bao giờ qua chữa trị và 44 người bấy kỳ khác không có đặc điểm như vậy. Tất cả người tham gia nghiên cứu đều được chọn lọc cẩn thận nhằm tránh sai lệch kết quả.
Dùng phương pháp chụp Positron cắt lớp (PET) , các nhà nghiên cứu tìm hiểu cách não bộ vận chuyển chất dopamine, một chất quan trọng liên quan đến cảm xúc
Đặc biệt, họ cũng đo nồng độ của 2 loại proteine khác là proteine thụ thể và vận chuyển Dopamine mà nếu thiếu chúng thì Dopamine cũng không tác động hiệu quả lên cảm xúc con người.
Bênh nhân ADHD có nồng độ thầp chất dopamine, chất điều chỉnh cảm xúc quan trọng, ảnh hưởng đến cảm xúc và cảm giác, ví dụ như động cơ hành vi và hưng phấn được khen. Chắc chắn rằng điều này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của việc học. Các nhà nghiên cứu đề nghị giáo viên tổ chức lớp học thú vị và đầy thử thách, do đó thúc đẩy trẻ ADHD bị lôi cuốn và tham gia tốt hơn và cảm thấy bắt buộc để hoàn thành bài học.
Một nhà nghiên cứu khác cho rằng nghiên cứu này giúp đưa ra phương pháp chữa trị khác là sử dụng thuốc kích thích để tăng việc sử dụng dopamine. Đây là phát hiện quan trọng vì từ lý thuyết suy ra bệnh nhân ADHD có xu hướng sủ dụng thuốc kích thích hay bị béo phì là do cố gắng bù đắp lại “hệ thống củng cố não bộ” một cách không chủ ý.
Andrea Bilbow làm việc cho tổ chúc từ thiện ADDISS (hỗ trợ ba mẹ của/và trẻ em mắc ADHD) nói rằng nghiên cứu này sẽ giúp thuyết phục những người cho rằng ADHD là “hậu quả của sự giáo dục gia đình kém” thay đổi quan điểm thành ADHD là căn bệnh y khoa thật sự. “Những phát hiện của nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta đi một bước tiến dài trong việc hiểu các triệu chứng căn bệnh, nhưng quan trọng hơn nó cũng giúp đem lại thông tin cho giáo viên ý tưởng giúp các trẻ bị ADHD để các em thích nghi với lớp học vì đã có một thời gian quá lâu người ta cho rằng ADHD là do trẻ cố tình bướng bỉnh, từ đó dẫn đến việc dạy sai phương pháp và cuối cùng là trẻ bị loại khỏi trường học vĩnh viễn.”
Giáo sư Katya Rubia của Viện tâm thần học Luân Đôn nói thêm :” Nghiên cứu này mở rộng chân trời mới cho chúng ta. Nó cho thấy bệnh ADHD không chỉ có bất thường trong hệ thống quản lý sự chú ý của não bộ mà còn bất thường các khu vực “động cơ” và “cảm xúc”. Điều này gợi ý các giáo viên cần đảm bảo rằng trường lớp cần thú vị và hấp dẫn hơn nữa để trẻ em ADHD có động lực để quan tâm đến bài vở.”
Chú thích người dịch
(*) Hệ thống củng cố trong não (Brain Reward System) Cơ sở này được gọi là Brain Reward
System ( tạm dịch là: Hệ thống Củng cố trong não ), với các chức năng chủ yếu là: Tăng cường những hành vi có lợi cho sự tồn tại của con người – ví dụ, ăn đồ ngọt, những thức ăn ngon để cung cấp dinh dưỡng; uống nước để cung cấp nước cho tế bào; hoạt động tình dục để duy trì nòi giống; tập thể dục để cải thiện sức khoẻ….
Theo Kang Zhong Guo