“Ngũ Cầm Hí” là một bài khí công cổ đại. Tương truyền bài này là do danh y Hoa Đà thời Tam quốc sáng tác, mô phỏng điệu bộ của năm loài thú là cọp, nai, gấu, khỉ và chim.
Nguồn gốc khí công
Khí công có nguồn gốc từ thời cổ đại, xuất sinh ở Trung Hoa nơi có nền văn minh lâu đời nhất. Theo ghi chép lại trong sử sách, vào thời đó Trung Quốc có nhiều sông ngòi, khí hậu ẩm thấp làm cho nhiều cư dân nơi đây mắc bệnh về khớp, để khắc phục điều này người dân nơi đây đã tạo ra các vũ điệu giúp mọi người vận động một cách tự nhiên, những vũ điệu này là những dấu hiệu đầu tiên của khí công cổ đại Trung Hoa.
Từ ngàn năm trước, người Trung Hoa đã biết con người có một năng lực nội tại, nếu biết cách phát huy những khả năng tiềm ẩn bên trong thì sức khoẻ sẽ kiện toàn, phòng tránh được các bệnh tật. Năng lực siêu nhiên đó là Khí. Khí là nguồn năng lực sống, luôn luôn luân chuyển trong khắp cơ thể, đi qua các kinh mạch, vào phủ tạng. Nó được thể hiện dưới cả hai dạng Vật chất và Tinh thần.
Danh y Hoa Đà
Hoa Đà tự là Nguyên Hóa, quê ở đất Bái (nay là huyện Bắc, tỉnh An Huy, Trung Quốc), sinh vào thời Đông Hán. Ông là một người học giỏi, ham học, thông suốt Ngũ Kinh, tính tình điềm đạm, xa lánh quan trường để xu hướng về y thuật. Tương truyền tuổi trẻ ông du học ở Từ Châu, từng đỗ hiếu liêm. Tể tướng Trần Khuê và Thái úy Huỳnh Uyển của nước Bái từng tiến cử và mời Hoa Đà ra làm quan, song ông đều từ chối. Ông quyết chí học thuốc cứu đời, trừ bệnh tật cho dân chúng và nghề bốc thuốc trị bệnh của ông rất đặc sắc do được dị nhân truyền thụ.
Tinh thông về phương mạch lại giỏi về đạo dẫn, ông đã mô phỏng điệu bộ của các loại thú mà luyện tập thân thể, đến tuổi cao mà dung nhan vẫn như trai tráng.
Khi chữa bệnh thang thuốc ông dùng chỉ đôi ba vị, dùng tay bốc thuốc mà tự đúng cân lượng, không bao giờ phải cân đi cân lại, nấu chín uống xong là hầu như khỏi bệnh.
Về châm cứu và mổ xẻ, đây là sở trường của ông. Những bệnh cần châm cứu, ông chỉ châm một vài huyệt, cứu một vài tháng là bệnh lành; ông cũng nổi tiếng về “độc châm” (châm một cây kim). Vào thời đó chiến tranh loạn lạc liên miên, người chết chôn không hết, thi thể chất đầy đồng. Đây là một cơ hội quý báu cho ông thực nghiệm mổ xẻ tử thi, nghiên cứu cơ thể học.
Vì vậy, trình độ ngoại khoa (gây mê và phẫu thuật y khoa) của ông rất cao, được người đời sau tôn sùng và tôn xưng là “ngoại khoa thánh thủ”. Tương truyền, ông đã nghiên cứu sáng tạo ra “thang ma phế” gồm hỗn hợp rượu và thảo dược, dùng để gây mê bệnh nhân; sau đó ông mới phẫu thuật trị bệnh. Tiến hành mổ xẻ xong, ông khâu lại và bôi một loại cao lên vết mổ; bệnh nhân chỉ thấy ngứa chứ không đau, một thời gian sau là bình phục…
Trong tuyệt tác “Tam Quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung Hoa Đà đã chữa bệnh cho Quan Công theo phương thức “cạo xương, trị độc”. Quan Công trong trận đánh Phàn Thành bị trúng một mũi tên độc, chất độc ngấm vào tới xương. Sau khi đến chẩn bệnh và được sự đồng ý của Quan Công, Hoa Đà đã trị bệnh cho ông bằng cách dùng dao nhọn rạch chỗ thịt ấy tới xương, cạo sạch chất độc do mũi tên đâm vào, trong lúc đó Quan Công vẫn bình thản đánh cờ với Mã Lương.
Về sau, Tào Tháo bị bệnh cũng nhờ Hoa Đà chữa trị. Nhưng do bản tính đa nghi, khi được Hoa Đà khuyên nên mổ sọ để loại bỏ khối u, Tào Tháo lại cho rằng Hoa Đà muốn lấy đầu của mình nên tống ông vào ngục. Kết quả Hoa Đà chết trong nhà ngục, khi Tào Tháo thực sự phát bệnh, nhớ đến Hoa Đà, tìm đến Hoa Đà thì đã muộn.
Bài tập “Ngũ cầm hí”
Ngũ cầm hí là môn khí công động dựa trên cơ sở vận động của 5 loại vật: Hùng (Gấu), Hạc (chim Hạc), Hổ (Cọp), Viên (Khỉ) và Lộc (Nai). Luyện tập Ngũ cầm hí có tác dụng khai thông kinh mạch, điều hoà khí huyết, từ yếu tố này sẽ nâng cao thể trạng cơ thể giúp người tập luyện khỏe mạnh, vững chắc, nhanh nhẹn.
Đặc điểm của Ngũ cầm hí là phối hợp học thuyết tạng phủ kinh lạc của đông y, sự kết hợp của “ngũ hí” hay riêng rẻ từng hí đều có tác dụng tốt cho cơ thể. Ngũ cầm hí mô tả cái uy mãnh của Hổ; cái an nhàn thoải mái của Nai; cái trầm tĩnh của Gấu; cái linh hoạt của Khỉ; cái nhẹ nhàng sắc bén của chim Hạc, ẩn chứa thần thái của Ngũ cầm hí là hình thần đều chu đáo, ý khí theo nhau, nội ngoại hợp nhất.
- Hổ hí mô phỏng động tác vồ mồi của giống cọp, nhằm luyện hai tay. Do đó, khi luyện hổ hí, phải biểu lộ thần uy dũng mãnh của hổ, thần hiện ở mặt, uy phát ở ngón tay.
- Lộc hí mô phỏng động tác xoay đầu duổi cổ giống hươu nai, nhằm rèn luyện cơ nhục ở đầu cổ và các khớp xương sống, đồng thời cải thiện sự lưu hành của huyết dịch trong đại não. Do đó, khi luyện lộc hí phải hồn nhiên, an tĩnh như hình dáng con nai ngoảnh đầu nhìn lên cụm lá.
- Hùng hí mô phỏng tư thế nằm nghiêng của loài gấu nhằm rèn luyện phần trắc diện của cơ thể. Do đó, khi luyện hùng hí, phải bắt chước thái độ trầm hùng của gấu, bề ngoài tuy có vẻ nặng nề, nhưng bên trong hàm chứa sự nhẹ nhàng linh hoạt.
- Viên hí mô phỏng sự nhảy nhót trên mũi bàn chân của loài khỉ vượn, nhằm rèn luyện hai chân. Do đó, khi luyện viên hí (hay hầu hí), phải có tính hiếu động như khỉ, nhưng trong động có tĩnh.
- Điểu hí (hay hạc hí) mô phỏng cách quạt cánh bay lượn của loài chim, nhằm rèn luyện các khớp tay và cơ nhục vùng ngực, đồng thời hỗ trợ cho sự hô hấp. Do đó, khi luyện điểu hí phải có khí thế hiên ngang, đứng thẳng, mắt nhắm như con hạc vậy.
Nhẫn Đông tổng hợp