Người Việt dù chăm chỉ, tốc độ tăng năng suất lao động cao nhất Đông Nam Á song gần 16 lao động Việt Nam mới làm việc bằng 1 người Singapore…
Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) vừa công bố báo cáo vĩ mô quý I/2015, trong đó đề cập đến năng suất lao động Việt Nam thời kỳ 1992 – 2015. Theo đó, năng suất của toàn nền kinh tế năm 2015 theo giá hiện hành đạt 79,3 triệu đồng một người, tăng 6,42% so với năm 2015.
Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam đi xuống mức thấp nhất vào năm 2005 và bứt phá nhất trong năm 2015, lần đầu tiên vượt ngưỡng 6%.
Theo CIEM, tính chung giai đoạn 1992 – 2014, năng suất lao động tính theo sức mua tương đương của Việt Nam tăng trung bình 4,64%, là mức tăng cao nhất trong khu vực ASEAN nhưng so với mức tăng 9,07% của Trung Quốc vẫn thấp hơn đáng kể.
Do xuất phát điểm rất thấp nên đến năm 2014, năng suất lao động của người Việt đạt 9.138,6 USD theo ngang giá sức mua (PPP) của năm 2011. Với mức này, gần 16 lao động Việt mới có năng suất làm bằng một người Singapore. Nếu giữ tốc độ này, phải mất hơn 60 năm, Việt Nam mới đuổi kịp được Singapore.
Tương tự, một người Hàn Quốc cũng có năng suất lao động bằng 7 người Việt cộng lại. Mức năng suất lao động của Việt Nam cũng bị Thái Lan, Philippines, Trung Quốc… bỏ xa. Khoảng cách này lại phần nào được nới rộng, theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), 15 người Việt Nam có năng suất lao động bằng một người Singapore năm 2013.
Như vậy, người Việt Nam dù chăm chỉ, tốc độ tăng năng suất cao nhất Đông Nam Á nhưng vẫn mãi nghèo. CIEM nhận định: “Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp và tăng chậm, lao động chủ yếu làm việc trong khu vực có năng suất thấp, phương tiện sản xuất chậm đổi mới, chất lượng lao động thấp và môi trường kinh doanh thiếu cạnh tranh”.
Cơ quan này cho rằng, trong khi đổi mới sáng tạo là động lực không có giới hạn của tăng trưởng, là chìa khóa giúp một số nước Đông Á vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”. Tuy nhiên, công nghệ và sáng tạo vẫn là “vùng trũng nhất” (có xếp hạng thấp nhất), kéo dài nhiều năm trong sơ đồ cạnh tranh quốc gia của Việt Nam.
CIEM dẫn báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2014 – 2015, Việt Nam được xếp hạng chung là 68, trong khi các chỉ số cấu phần liên quan đến đổi mới sáng tạo lại thấp hơn nhiều. Cụ thể năng lực hấp thụ công nghệ Việt Nam xếp thứ 121; Chuyển giao công nghệ từ FDI số 93; Độ sâu của chuỗi giá trị là 112; Mức độ phức tạp của quy trình sản xuất xếp thứ 116; Chất lượng của các tổ chức nghiên cứu khoa học số 96; Giáo dục và đào tạo ở cấp sau phổ thông ở vị trí 96.
Nghiên cứu của CIEM còn cho thấy số lượng doanh nghiệp ở Việt Nam có xu hướng tăng chậm lại. Các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn ngày càng lớn. Tỷ trọng các doanh nghiệp vừa và lớn giảm mạnh và liên tục từ 7,88% năm 2004 xuống còn 4% năm 2013. Việc các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chậm phát triển lên thành các doanh nghiệp vừa và lớn là một trong những nguyên nhân làm cho năng suất tăng chậm
Năm 2013 thu nhập của lao động trong doanh nghiệp siêu nhỏ chỉ bằng 70% thu nhập của lao động trong doanh nghiệp vừa. Xu hướng hiện nay tỷ trọng việc làm trong các doanh nghiệp vừa và lớn đang giảm dần. Nếu tiếp tục xu hướng này thì sẽ làm chậm quá trình tăng năng suất lao động của Việt Nam.
Ngoài ra, khu vực công nghiệp xây dựng có năng suất lao động cao nhất tới gần 96 triệu đồng một năm, tốc độ tăng trưởng nội bộ ngành khá cao, nhưng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành lại âm.
Chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực có nhiều vấn đề nan giải khi những ngành công nghệ cao, kỹ thuật, chế tạo đem lại năng suất cao lại chưa để đáp ứng. Kết quả điều tra lao động việc làm giai đoạn 2010 – 2014 cho thấy, tỷ lệ người thất nghiệp đã qua đào tạo tăng từ 18,6% năm 2010 lên 40% năm 2014.
Đặc biệt, khi Việt Nam gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và một trong bốn trụ cột lớn của khối này là lao động được tự do di chuyển. Khi đó, nếu năng suất lao động thấp, lao động Việt Nam sẽ bị bật ra khỏi cuộc chơi.
Theo vnexpress.vn