Hitler từng viết: “Tuyên truyền là thứ vũ khí thực sự khủng khiếp trong tay của một chuyên gia”. Lịch sử đã chứng minh, tuyên truyền có sức sát thương vô cùng lớn, nhiều quốc gia đã sử dụng phương thức này của Hitler nhằm duy trì sự độc tài.
Từ chiến dịch tuyên truyền của Hitler…
Tại Đức vào những năm 1930, các lãnh đạo Đảng Quốc xã đã biết dùng sức mạnh của truyền thông đại chúng nhằm truyền bá lòng hận thù và chủ nghĩa bài xích người Do Thái. Trong quá trình vươn lên nắm quyền, Đức Quốc xã đã triển khai các công nghệ truyền thông hiện đại tinh vi, gồm cả radio và phim ảnh, để giành chiến thắng trong “trận chiến tư tưởng” – và do đó định hình dư luận và hành vi của những người dân vốn có học thức trong một nền dân chủ non trẻ.
Chẳng hạn, khi tham gia tranh cử chức Thủ tướng năm 1932, để truyền bá chủ nghĩa phát xít mới mẻ vào dân chúng, Hitler đã chỉ đạo một chiến dịch tuyên truyền rầm rộ mà nước Đức chưa từng thấy. Họ dán hàng triệu pa-nô đầy màu sắc khắp các thành phố và thị trấn, phân phối 8 triệu tờ bướm và thêm 12 triệu bản tờ báo của đảng, tổ chức 3.000 buổi mít-tinh lớn nhỏ mỗi ngày khắp nước Đức. Lần đầu tiên trong một cuộc bầu cử ở Đức, Quốc xã sử dụng phim ảnh, máy hát phát ra loa đặt trên các xe tải.
Vũ khí tư duy thâm độc này đã giúp Hitler nắm được quyền hành tuyệt đối tại Đức. Theo sử gia Sebastian Haffner ngay cả một số người Đức bỏ phiếu chống Hitler trước đó cũng quay sang ủng hộ Hitler. Bộ máy tuyên truyền đã dựng Hilter thành một một anh hùng dân tộc, một thiên tài quân sự, một con người thiêng liêng đầy huyền nhiệm.
Trong giai đoạn 1933 – 1937, khi chế độ Đức Quốc xã ráo riết tiến hành áp đặt các lý tưởng và chính sách của mình lên xã hội Đức, tuyên truyền mật độ cao đã khiến đại đa số người Đức dường như không cảm thấy phiền hà khi bị tước mất quyền tự do.
Cho dù khi đó, nhiều nét văn hóa bị hủy hoại bởi chế độ tàn bạo, còn cuộc sống và công việc của dân chúng bị uốn nắn vào khuôn khổ chặt chẽ chưa từng có. Người nước ngoài ngạc nhiên khi thấy người dân Đức dường như không cảm thấy rằng họ đang bị thị uy và đàn áp. Ngược lại, họ còn ủng hộ chế độ Đức Quốc xã với lòng sốt sắng chân thực.
Đây là hệ quả của tuyên truyền tẩy não dư luận trong thời gian dài, như chính Hitler đã nói: “Bằng tuyên truyền khôn ngoan và dai dẳng, người ta có thể khiến cho quần chúng nghĩ rằng thiên đường là địa ngục, địa ngục là thiên đường”.
Trong diễn văn tại đại hội Quốc Xã Đức ngày 28/4/1938, Hitler tóm tắt các công trạng của mình: “Tôi đã vượt qua những hỗn loạn tại Đức, tái lập trật tự, gia tăng sản xuất một cách ồ ạt trong mọi lĩnh vực kinh tế quốc gia…Tôi đã thành công trong việc đưa vào sản xuất 7 triệu người thất nghiệp …Tôi chẳng những đoàn kết nước Đức về mặt chính trị mà còn tái vũ trang và bước xa hơn trong việc xóa bỏ Hiệp Ước Versailles. Tôi đã sát nhập các tỉnh bị chiếm đoạt từ năm 1919…Tôi đã hoàn thành các mục đích đó mà không nhỏ một giọt máu của nhân dân, và không gây ra sự chịu đựng cho người dân Đức cũng như các dân tộc khác”.
Câu “không nhỏ một giọt máu của nhân dân, và không gây ra sự chịu đựng cho người dân Đức cũng như các dân tộc khác” là những lời đường mật rót vào tai người dân Đức cho đến khi thế chiến thứ hai bùng nổ mọi hối hận đã muộn.
Người có công lớn nhất trong việc đưa Hitler lên ngôi vị Lãnh tụ tối cao và Quốc Trưởng Đức không ai khác hơn là Joseph Goebbels, Bộ trưởng Bộ Tuyên Truyền Đức từ 1933 đến 1945. Paul Joseph Goebbels từng nói: “Nếu nói dối đủ lớn và cứ tiếp tục lặp đi lặp lại lời dối trá của mình, quần chúng rồi sẽ tin vào lời dối đó”.
Trong công cuộc đàn áp người dân Do Thái, Hitler và Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Goebbels đã phát động một chiến dịch lớn nhằm thuyết phục người Đức rằng, người Do Thái là kẻ thù của đất nước này. Báo chí bị lợi dụng triệt để, đổ lỗi toàn bộ các vấn đề xảy ra ở Đức là do người Do Thái. Thậm chí, họ còn khẳng định người Do Thái thực hiện những vụ giết trẻ em theo đạo Kito và dùng máu của họ làm bánh trong lễ Vượt qua. Công cụ tuyên truyền đã trở thành thứ vũ khí đáng sợ giúp chính quyền độc tài loại bỏ đi những người bất đồng chính kiến.
…đến chiến dịch đổi trắng thay đen của chính quyền Trung Quốc
Ở Trung Quốc, Mao Trạch Đông cũng từng tuyên bố: “Nếu chúng ta muốn lật đổ một chính thể, trước tiên chúng ta phải tuyên truyền, và làm công tác trong lĩnh vực tư tưởng”. Trải qua các cuộc vận động chính trị trong lịch sử, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cũng đã sử dụng triệt để công cụ tuyên truyền một chiều nhằm lật đổ bất cứ phần tử đối nghịch nào.
Phương tiện truyền thông Trung Quốc chính là cơ quan ngôn luận của một bộ máy tuyên truyền rộng lớn vận hành bởi nhà nước, và cỗ máy này đóng vai trò chủ đạo trong cuộc đàn áp nhà bất đồng chính kiến, tôn giáo, người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng… và nhất là đối với Pháp Luân Công.
Từ năm 1999, sau khi Giang Trạch Dân ra lệnh cấm Pháp Luân Công, một chiến dịch tuyên truyền toàn quốc đã được bộ máy chính quyền phát động để khiến người dân thù hận những học viên ôn hòa này. Theo Minh Huệ Net cho biết, đài truyền hình CCTV của Trung Quốc đã liên tục phát sóng các chương trình phỉ báng Pháp Luân Công bảy giờ một ngày. Những chương trình này sử dụng các thủ đoạn tuyên truyền bịa đặt bôi nhọ thanh danh nhà sáng lập Pháp Luân Công, ông Lý Hồng Chí.
Một ví dụ là chương trình “Tiêu điểm”, một chương trình được phát sóng vào giờ vàng của CCTV nhằm đưa tin các vấn đề xã hội hiện tại. Theo một báo cáo năm 2013 do Tổ chức Quốc tế điều tra về cuộc bức hại Pháp Luân Công (WOIPFG) công bố, trong vòng sáu năm rưỡi, từ năm 1999 đến năm 2005, “Tiêu điểm” đã phát sóng 102 tập phim phỉ báng Pháp Luân Công. Cũng theo báo cáo trên, riêng từ tháng 7 đến tháng 12/1999, có 39 tập phim phỉ báng Pháp Luân Công được phát sóng.
Một thí dụ khác là Bản tin CCTV, phát sóng hàng ngày vào lúc 7 giờ sáng. Được xem là một chương trình tin tức chủ yếu, đó là nguồn tin chính đối với người Trung Quốc, dù họ ở thành thị hay nông thôn. Truyền hình CCTV đã nâng thời lượng chương trình từ 30 phút lên 45 phút để tăng nội dung chương trình phỉ báng Pháp Luân Công trong bản tin. Các tin tức phỉ báng được thu thập và truyền rộng trên báo chí và đài phát thanh của Tân Hoa Xã và được phổ biến ra nước ngoài thông qua chương trình Tin tức Trung Hoa (CNS), hãng thông tấn tin tức Hong Kong Trung Quốc (CNA), và các hãng thông tấn ngoại giao Trung Quốc.
Như vậy, để tuyên truyền đổi trắng thay đen, chính quyền Giang Trạch Dân đã sử dụng truyền thông tần suất cao để định hướng quan điểm người dân trong nhiều năm, về mức độ còn hơn cả thủ đoạn tuyên truyền thời Hitler. Chỉ có sự khác biệt là: Hitler tuyên truyền để biến một cái xấu thành cái tốt, còn Giang Trạch Dân tuyên truyền để biến một cái tốt thành cái xấu.
Nhờ vào hệ thống tuyên truyền rộng khắp và chuyên nghiệp, các kênh truyền hình phủ sóng toàn thế giới, ĐCSTQ đã đưa những luận điệu lừa dối, sai sự thật truyền ra khắp thế giới. Nhiều người dân quốc tế, do chưa có cơ hội tiếp xúc với Pháp Luân Công, cũng như không nhận thức ra bản chất thật sự của ĐCSTQ, đã tin theo tuyên truyền 1 chiều, quay sang đối lập với Pháp Luân Công. Vô tình những người này đã tiếp tay cho tội ác diệt chủng, đàn áp và thu hoạch nội tạng sống các học viên Pháp Luân Công của chính quyền Trung Quốc.
Mặc khác, bằng áp lực ngoại giao và các mối lợi kinh tế béo bở mà Bắc Kinh hứa ban cho nếu như chính phủ các nước biết giữ im lặng, hoặc giúp Trung Quốc ngăn chăn những thông tin sự thật về Pháp Luân Công và cuộc bức hại đang diễn ra, tiếp xúc với người dân. Vì thế ở một số nơi trên thế giới, sự thật về cuộc bức hại vẫn đang bị cố tình che giấu và bưng bít.
Để đẩy chiến dịch tuyên truyền lên một cấp độ mới, chính quyền Giang Trạch Dân đã dàn xếp “Vụ tự thiêu ở Quảng trường Thiên An Môn” để vu khống rằng người tu luyện Pháp Luân Công sẽ tự tử. Vụ tự thiêu trên quảng trường Thiên An Môn nhanh chóng bị Thời báo Washington và nhiều tổ chức nước ngoài vạch trần là một trò lừa bịp. Sự kiện này cũng được đề cập đến trong phim Lửa Giả, bộ phim đạt giải thưởng thế giới giành cho phim tài liệu.
Nhưng trong đất nước Trung Quốc, trò lừa bịp đã lan truyền một cách nhanh chóng và gây hậu quả phá hoại. Bởi vì màn kịch dàn dựng vụ tự thiêu diễn ra trước thềm Tết Nguyên Đán của Trung Quốc và bao gồm cảnh một bé gái 12 tuổi và mẹ của bé, một số lượng khán giả khổng lồ đã xem chương trình truyền hình này. Các báo cáo được đưa lên báo chí, truyền hình và thậm chí còn chèn vào trong các sách giáo khoa ở trường học. Những người đồng cảm đã quay sang giận dữ và thù hận các học viên Pháp Luân Công.
Có thể thấy rằng, điều khủng khiếp nhất của truyền thông độc quyền là nó có thể tùy ý lèo lái tư tưởng của cả một dân tộc theo chiều hướng có chủ đích và người dân hoàn toàn thụ động tiếp nhận điều đó. Tuy nhiên, với thời đại internet phát triển như ngày nay, người ta có thể dễ dàng tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin khác nhau mà có sự suy xét, lựa chọn điều nên tin và không nên tin. Mặc dù vậy, chính phủ Trung Quốc cũng triệt tiêu luôn khả năng này bằng cách xây dựng hệ thống bức tường lửa (firewall) nhằm ngăn chặn người dân tiếp cận với các thông tin mà Đảng không muốn.
Như vậy, ĐCSTQ có thể chạy tội diệt chủng bằng cách sử dụng tuyên truyền để hợp thức hóa cuộc đàn áp của mình. Nhưng liệu một vở kịch như Tự thiêu Thiên An Môn có tái diễn với mô-típ: dựng chuyện trong thật có giả, sử dụng hình ảnh gây sốc tương tự như việc mẹ giết con, rồi chụp mũ, tuyên truyền, kích động thù hận? Trong thông báo ngày 20/5/2019, trang Minh Huệ Net của Pháp Luân Công đã nhận định thủ đoạn này đang được tái sử dụng bên ngoài Trung Quốc để gây nên những thông tin tiêu cực về môn pháp này.
Với sự chuyển động của quốc tế xoay quanh tính chính nghĩa, sự thật về ĐCSTQ đang ngày càng được hé mở. Lịch sử cho thấy tội ác của Liên Xô không cần tòa án cũng khiến chế độ này sụp đổ. Tội ác của Khmer đỏ dẫu được Trung Quốc bao che trì hoãn trong bao nhiêu năm rồi vẫn bị tuyên án. Do đó, điều cần chờ đợi không phải kết cục của tội ác thế nào, mà trong dòng chảy cuối cùng này, điều mà mỗi từng cá nhân lựa chọn mới là thứ khiến người ta phải suy ngẫm.
Gia Hưng (T/h)