Ngày trước đi xe, lơ hay hỏi khách: “Ai có đi Lăng Cha Cả không?” để thu tiền vé. Sở dĩ có cái tên Lăng Cha Cả vì nằm ở cuối đường Eyriaud des Vergnes (sau đổi là Trương Minh Ký) nay là vòng xoay Lê Văn Sỹ – Hoàng Văn Thụ (Q.Tân Bình, TP.HCM).
Ngày trước đi xe, lơ hay hỏi khách: “Ai có đi Lăng Cha Cả không?” để thu tiền vé. Sở dĩ có cái tên vì nằm ở cuối đường Eyriaud des Vergnes (sau đổi là Trương Minh Ký) nay là vòng xoay Lê Văn Sỹ – Hoàng Văn Thụ (Q.Tân Bình, TP.HCM).
Nguồn gốc tên gọi…
Trước 1975, tại ngã tư Lê Văn Sỹ – Hoàng Văn Thụ có một khu đất rộng khoảng hai ngàn thước, ở đó có mộ phần giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) là một người Pháp đã sang giúp Nguyễn Phúc Ánh chống lại quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ. Năm 1980, vì địa phương cần chỉnh trang đường lộ thành phố nên toàn phần mộ được dời đi nơi khác. Những người khai mộ lúc đó cho biết khi khai quật, người ta còn thấy đầy đủ cả thánh giá bằng vàng tây lớn với chiếc gậy vàng của giám mục cùng những mề đay của nhà nước Pháp – Nam khi trước đã trao tặng Đức cha Bá Đa Lộc.
Theo tư liệu xưa, Bá Đa Lộc chỉ là tên Việt được phiên âm từ tên Pigneau de Béhaine. Tuy nhiên, có tác giả còn cho rằng: Bá Đa Lộc tức Đức cha Adran. Vậy Adran là tên thật hay chỉ là danh hiệu?
Tài liệu lưu trữ của Hội Thừa sai truyền giáo Paris (Pháp) ghi: Pigneau sinh ngày 2/11/1741 tại làng Origny, tỉnh Aisne (miền bắc nước Pháp). Pigneau còn nhỏ chỉ được theo học tại một chủng viện tại tỉnh nhà Aisne. Học hết tiểu chủng viện, rồi lên Đại chủng viện Paris.
Năm 1765 Pigneau tình nguyện xin đi Viễn Đông để làm nhiệm vụ truyền giáo, và được bổ nhiệm tới VN. Tới nơi, Pigneau làm giáo sư chủng viện tại Hòn Đất thuộc tỉnh Hà Tiên nhưng năm 1770, tình hình đất Hà Tiên bất ổn, vì lúc đó quân Tây Sơn đang hành quân đánh quân Nguyễn Vương (tức Gia Long).
Pigneau phải lánh nạn sang Ấn Độ. Pigneau là một linh mục trẻ tuổi, thông minh (đã soạn cuốn Tự điển Việt Nam – La tinh – 1772) nên năm 1771 được Tòa thánh La Mã chọn làm Giám mục phó Tổng tòa địa phận Đàng Trong tại VN. Tới ngày 24/2/1774, Pigneau de Béhaine được nhận lễ tấn phong giám mục, và từ đây Pigneau lấy hiệu tòa là Adran.
Theo thông lệ, khi một linh mục được phong chức giám mục thì phải chọn một tên hiệu gọi là hiệu tòa, nên khi viết về Đức cha Bá Đa Lộc trong sách, báo Pháp viết là L’Eveque d’Adran, hoặc Monseigneur Adran. Tiếng Việt gọi là đức cha hay giám mục. Như vậy, dịch nguyên chữ L’Eveque d’Adran và Đức cha Adran hay giám mục Adran cũng vậy.
Vì vị tu sĩ đứng đầu trong địa phận nên dân gian gọi cha cả. Còn chữ Bá Đa Lộc là phiên âm từ tiếng Trung Quốc sang, lấy từ chữ Pedro (hoặc “Vê rô”) và nếu phiên âm VN là chữ Pedro (Phê rô) mà ngày nay người ta thường dùng.
“Bí ẩn” bia mộ
Mọi người đều cho rằng Lăng Cha Cả là mộ phần nơi chôn xác của Bá Đa Lộc (mất năm 1799) từ đó đến nay. Trong tác phẩm Công giáo Đàng Trong của TS sử học, linh mục Trương Bá Cần, viết: “Giám mục Pigneau được an táng trong một khu vườn lúc sinh thời đã có nhà nghỉ mát của người, hiện nay nằm ở đầu đường Lê Văn Sỹ nơi quen gọi là “Lăng Cha Cả”. Nhà Vua đã cho xây lăng trên ngôi mộ, gồm một nhà lợp ngói, cột và vách bằng gỗ ván quý, có tường bao quanh ở phía trước là một tấm bia đá lớn ghi tiểu sử và công đức của vị giám mục”.
Báo Nam Phong tạp chí của Phạm Quỳnh số phát hành tháng 2/1925, trong bài Bá Đa Lộc: “Mộ ông hiện nay ở đâu?“, tác giả Vương Gia Bật bật mí:
“Làng Ngọc Hội cách thành phố Nha Trang 3 km ở phía trước mộ có một cái miếu nhỏ hai bên khắc Khắc cốt báo thâm ân. Ở giữa đề chữ “Bá Đa Lộc chi mộ”, cũng bằng chữ Hán, phía sau cái miếu này có khắc cây thánh giá.
Ngày 13/3/1925 quan công sứ và linh mục nhà thờ Bình Can (Nha Trang) đã ra lệnh đào để khám xét, đào mất một buổi mai và nửa buổi chiều mới thấy bên trong, đào lên thời xương mục, lượm lặt được một sàng vung gạo xương đã mục và một cái hàm còn dính 3 cái răng nhưng không phải liền nhau, 2 cái khít một chỗ còn cái kia thì cách khoảng, ngoài ra còn hai, ba cái rơi ra ngoài nữa“.
Như vậy, mộ Đức cha Bá Đa Lộc chôn ở Nha Trang, còn mộ Lăng Cha Cả ở Tân Bình, có lẽ vì thời đó nhà Nguyễn phải lo đối phó nhà Tây Sơn nên việc chôn cất xác Bá Đa Lộc giấu kín không cho ai biết bằng cách làm đám tang thật lớn để che mắt, lại cho dựng lăng ở Gia Định để đánh lạc hướng.
Đến năm 1925, người Pháp mới cho cải táng mả thực của Đức cha Bá Đa Lộc ở Nha Trang, rồi mang cốt về chôn ở Gia Định chỗ nghĩa trang các vị thừa sai Pháp mà trước đó đặt là Lăng Cha Cả.
Lý Nhân Phan Thứ Lang
L.C.Sơn (lược trích)