Valentine, ngày mà cả thế giới tôn vinh tình yêu đôi lứa, người ta bày tỏ tình cảm của mình bằng những tấm thiệp, hoa hồng, sô-cô-la, và những quà tặng đặc biệt khác. Nhưng tại sao ngày lễ tình nhân lại được đặt theo tên Thánh Valentine, một vị Thánh “tử vì đạo” của Cơ Đốc giáo?
Để hiểu rõ về câu chuyện của Thánh Valentine, người ta phải quay về với cuộc đàn áp Cơ Đốc giáo của đế quốc La Mã. Thời đó, La Mã là một quốc gia hùng mạnh nhất phương Tây và cũng là quốc gia đàn áp tín đồ Cơ Đốc giáo tàn khốc nhất. Để kích động lòng thù hận của dân chúng đối với tín đồ Cơ Đốc giáo, một số học giả La Mã thời bấy giờ đã chế tác ra rất nhiều lời vu khống, bịa đặt, dối trá, nhắm vào các tín đồ Cơ Đốc như: giết trẻ sơ sinh để uống máu và ăn thịt, cuồng loạn, gian dâm, v.v… Nói chung, tất cả tội ác của xã hội La Mã thời bấy giờ đều gán lên thân các tín đồ Cơ Đốc.
Các đời hoàng đế La Mã cũng liên tiếp đưa ra các những sự trừng phạt tàn khốc nhất đối với những tín đồ Cơ Đốc:
Nero, một trong những hoàng đế tàn bạo nhất đế quốc La Mã, từng hạ lệnh bắt không ít tín đồ Cơ Đốc ném vào đấu trường, để những người quyền quý lớn tiếng cười xem cảnh tín đồ Cơ Đốc bị mãnh thú xé xác ăn thịt. Nero thậm chí còn căn dặn thuộc hạ bắt rất nhiều tín đồ Cơ Đốc cột chung vào bó cỏ khô, làm thành những ngọn đèn trong hoa viên. Đến khi trời tối, đèn người được đốt lên, chiếu sáng khắp hoàng cung, để mọi người thưởng ngoạn vui chơi.
Hoàng đế Aurelius bức hại các tín đồ Cơ Đốc cũng vô cùng tàn bạo. Theo mô tả của nhà sử học Schaff, “xác chết của những người tử vì đạo trải dài khắp đường phố; những xác chết đó sau khi bị chặt ra từng khúc mới đem đi thiêu hủy, tro cốt còn lại sẽ bị ném vào trong hồ, để tránh cái điều mà họ gọi là ‘kẻ thù của Thần linh’ làm ô uế Mặt đất”.
Năm 250, Hoàng đế Decius ra sắc lệnh, buộc tín đồ Cơ Đốc chọn ra ngày làm lễ hối hận nhận sai, từ bỏ tín ngưỡng của mình, nếu không sẽ bị tổng đốc địa phương xét xử. Những người làm quan dám tin theo Cơ Đốc giáo thì sẽ bị phạt làm nô lệ, hoặc bị tịch thu nhà cửa đất đai; người kiên định nhất thì bị xử tử. Còn về những người thuộc bình dân, tình cảnh càng bi thảm cùng cực.
Năm 303, Hoàng đế Diocletian lại tuyên bố sắc lệnh, bắt đầu sự kiện ‘Đế chế La Mã phát động chiến dịch đàn áp tôn giáo lớn nhất từ trước đến nay’, rất nhiều hành vi tàn bạo như triệt tiêu giáo hội, tịch thu kinh Thánh và sát hại giáo sĩ đã xảy ra.
Điều Chúa Giê-su muốn gửi tới nhân loại là gì? Đó chính là tình yêu, một tình yêu vô cùng bao dung và cao thượng như câu nói: “hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho đi mà chẳng hề hy vọng được đền trả”. Tuân theo lời dạy của Chúa, các tín đồ Cơ Đốc hết lòng tuân thủ sự thánh thiện, nhân ái, hòa bình và công lý. Họ cự tuyệt vào đấu trường để xem các tù tội chiến tranh và nô lệ cấu xé nhau cho đến chết, họ phóng thích nô lệ của mình vô điều kiện. Đời sống cá nhân giản dị thuần khiết của các tín đồ Cơ Đốc giáo đã tạo nên sự khác biệt hết sức to lớn với bầu không khí xa hoa, trụy lạc của xã hội thời bấy giờ.
Sau hàng trăm năm chứng thực chân lý của Chúa với rất nhiều tín đồ Cơ Đốc giáo hy sinh, cuối cùng người dân La Mã đã tỉnh ngộ, họ dần tin vào Chúa, vào những điều cao đẹp mà Chúa đã ban cho họ. Đức tin của người dân La Mã cứ thế lớn dần lên và lan rộng, bất chấp sự đàn áp tàn bạo của chính quyền. Những việc quan trọng như kết duyên, người dân La Mã đều mong muốn được Chúa chứng giám và tác thành thông qua các tu sĩ.
Vào thời đó, Hoàng đế Claudius muốn xây dựng một đội quân hùng mạnh. Ông muốn tất cả đàn ông phải tham gia vào quân đội. Nhưng đa số người dân không muốn chiến tranh, họ không muốn phải chém giết lẫn nhau và phải rời xa gia đình mình. Đã có rất nhiều người không nhập ngũ. Điều này làm Hoàng đế Claudius rất giận dữ, ông ta cho rằng nếu những người đàn ông không lấy vợ thì họ sẽ không phản đối việc tham gia vào quân đội.
Thế là, ông ta quyết định không cho phép bất cứ một người đàn ông nào được kết hôn. Lẽ dĩ nhiên, điều luật này không thể thực hiện được, các đôi nam nữ La Mã vẫn kết hôn trong bí mật và dưới sự chứng giám của Chúa thông qua các tu sĩ Cơ Đốc. Thánh Valentine là một trong những người đã đứng ra tác hợp cho rất nhiều đôi nam nữ. Trong một không gian nhỏ, với một cây nến, chỉ có cô dâu và chú rể, ông thì thầm đọc những lời nguyện ước cho hạnh phúc của họ trong tiếng bước chân rình rập từ những tên lính của hoàng đế.
Và một đêm, khi đang làm đám cưới cho một đôi tình nhân, Thánh Valentine bị bắt. Ông bị đưa ra toà và bị kết án tử hình. Những ngày còn lại trong tù chờ án tử hình ông luôn sống một cách vui vẻ, khiến cả những người lính La Mã cũng phải cảm phục và kính trọng.
Có một chuyện kể rằng vào đêm trước khi Thánh Valentine bị tử hình, có một người lính La Mã đã xin ông tác thành cho anh và người con gái mù anh yêu. Thánh Valentine đã cầu nguyện cho đôi trẻ, và điều bất ngờ đã xảy ra: mắt cô gái sáng trở lại. Hôm sau, trước khi lên đoạn đầu đài, Thánh Valentine đã để lại một lá thư tác thành cho cô gái cùng người lính La Mã, và ký dưới bức thư dòng chữ: “Tình yêu của Valentine dành cho con”.
Như vậy, ngày lễ tình nhân Valentine bao hàm trong đó nội dung thật lớn lao, đó không chỉ là sự tác thành đôi lứa, mà còn là cuộc bảo vệ và chứng thực tình yêu của Chúa – với vô số khắc nghiệt và hy sinh. Ngày lễ tình nhân Valentine ra đời chính là sự thức tỉnh của nhân thế, để tri ân và tỏ lòng thành kính trước những hy sinh của các thánh đồ Cơ Đốc giáo.