Con người trước nay vốn vẫn chỉ biết đến Thần núi qua các câu chuyện thần thoại cổ xưa trong dân gian. Tuy nhiên, chuyện kể dưới đây là một minh chứng sống động về Thần núi trong hiện thực cuộc sống hiện đại này.
Những câu chuyện, truyền thuyết liên quan đến Thần núi đã có từ lâu đời. “Sơn Hải Kinh” cách đây hơn hai nghìn năm đã ghi chép lại các loại truyền thuyết liên quan đến Thần núi. Trong “Thái Bình quảng ký” cũng có ghi chép về câu chuyện Đại Vũ giam cầm Thần núi. Trong “Ngũ Tạng Sơn Kinh” còn miêu tả khá là tường tận về tướng mạo của các vị Thần núi nữa.
Nhưng truyền thuyết rốt cuộc vẫn là truyền thuyết, câu chuyện dù sao cũng chỉ là câu chuyện. Nếu như nói trong truyền thuyết còn có câu chuyện con người qua lại, giao tiếp với Thần núi, vậy thì ở trong cuộc sống hiện thực, nhất là trong ngày hôm này khi mà nhân loại đã bước sang thế kỷ 21, con người sẽ thật khó tin. Bởi rất nhiều người hiện nay trên thực tế chỉ coi Thần núi là một loại thần thoại kiểu như câu chuyện 1.001 đêm của các nước Ả Rập thời xưa.
Sau khi tôi từ chỗ Phật sống Đan Chân Gia Lạp (Danzin Gyaco) nghe nói Nga Bát đã từng được Thần núi mời đi, tôi cũng cảm thấy rất kinh ngạc. Về sau tôi đã hỏi thăm được địa chỉ nơi ở của Nga Bát từ một vị Lạt Ma, tôi bèn lập tức đi tìm ông ấy.
Tìm kiếm suốt mấy ngày, mãi đến ngày thứ tư, tôi mới gặp được ông. Mở cửa mời tôi vào nhà là một người đàn ông hơn bốn mươi tuổi, trên người mặc bộ Tạng bào màu đỏ, thân thể rắn chắc, tướng mặt trung hậu, có thể nói một ít tiếng Hán. Căn nhà của ông giống như đại đa số các ngôi nhà khác ở nơi đây, nó không lớn lắm, chỉ khoảng sáu bảy mét vuông, trên sàn lót một tấm thảm dài 5 thước, ban ngày có thể ngồi, ban đêm có thể ngủ. Xung quanh tường có dán đầy khắp các bức tranh ảnh lớn nhỏ, được dán nhiều nhất vẫn là hình tượng Pháp Vương.
Mấy ngày trước, ông ấy đã lái xe đi huyện thành, tối hôm qua mới về nhà. Sau khi nghe tôi nói rõ mục đích đến đây, biết là Phật sống Đan Chân Gia Lạp bảo tôi đến, ông gật gật đầu, liền kể với tôi về câu chuyện được gặp gỡ Thần núi ấy.
Chuyện này xảy ra vào năm con khỉ theo lịch của Tây Tạng. Ông tuổi ngựa, năm đó 26 tuổi, là kế toán của làng Ước Nhã, xã Sắc Kha, huyện Sắc Đạt. Lúc đó làng vẫn gọi là đại đội, ông là kế toán của đại đội, đã làm nhiều năm rồi, còn kiêm phụ đạo viên kế toán của công xã. Trong làng, dưới thư ký, đội trưởng, thì kế toán cũng được coi là một nhân vật quan trọng.
Năm đó, theo bố trí của cấp trên, kế hoạch sản xuất cần phải điều chỉnh. Ông phải cưỡi ngựa đi đến chỗ Thập Đạo Ban để thông báo cho dân làng nơi đó, ngày hôm sau đến bộ đại đội mở Hội nghị toàn thể thôn dân. Đó là một ngày trời nắng, ánh mặt trời buổi chiều chói chang chiếu lên người thật ấm áp… Bỗng ông thấy trước mặt có một ông lão cưỡi ngựa đi đến, vừa cao vừa lớn, cao tầm cỡ ba bốn con ngựa vậy. Lão nhân này tướng mạo uy nghiêm, để râu quai nón, bộ râu lồm xồm phủ sang hai bên.
Ông lão dừng lại trước mặt ông, nói với ông rằng: “Ta là hộ Pháp của Thần núi Đan Kim, có chuyện cần cậu giúp đỡ, đêm nay ta sẽ đến tìm cậu”. Nga Bát cảm thấy có phần sợ hãi, trước nay ông vốn không tin vào những điều như Phật Đạo Thần, nhưng lại từng nghe không ít những câu chuyện liên quan đến Thần núi, Thần tiên, không ngờ hôm nay ông lại gặp được. Ông nói với ông lão rằng: “Nhà tôi còn có mẹ già cần phải chăm sóc, e rằng tôi không thể giúp ngài được”. Ông lão nói: “Cậu có thể giúp được ta, đừng lo lắng, buổi tối ta sẽ lại đến”. Lời còn chưa dứt thì lão nhân liền cưỡi ngựa đi mất.
Thông báo ngày mai mở cuộc họp cán bộ xong, Nga Bát ăn cơm tối ở Thập Đạo Ban, còn ở lại đó xem chiếu phim buổi tối. Ở nơi vùng cao này thì chiếu phim là một sự kiện lớn, những dân du mục lân cận cưỡi ngựa đến xem không phải là ít. Nga Bát ngồi giữa đoàn người. Phim được chiếu vào tối hôm đó là phim “Ngũ đóa kim hoa” (Năm bông hoa vàng), rất hay. Khi nhân viên chiếu phim đổi cái băng cuối cùng, Nga Bát đột nhiên nhớ đến ông lão mà mình gặp chiều nay, chẳng phải nói buổi tối còn sẽ đến tìm mình sao? Vậy là ông không ngồi yên được, hơn nữa lúc này hình ảnh trên màn ảnh ti vi lúc này cũng trở nên nhìn không thấy rõ. Ông liền đứng dậy đi ra khỏi đoàn người. Mọi người vẫn còn đang xem phim, không ai để ý ông rời khỏi cả.
Buổi tối hôm đó là ngày 10/4 theo Tạng lịch, hơn nửa vầng trăng treo trên bầu trời, ánh trăng rất sáng, hình dáng những ngọn núi chung quanh đều nhìn thấy được rất rõ ràng. Đi đến bên đường, Nga Bát nhìn thấy ông lão tựa như người khổng lồ đã đứng đợi ở đó. Thấy ông đi ra, ông lão bèn nói với ông rằng: “Tôi đã đợi cậu rất lâu rồi, tại sao không đến sớm hơn chứ? Hãy đi theo tôi”. Vừa nói, ông lão ở trên lưng ngựa cúi gập người xuống, giống như bắt gà con vậy, nhẹ nhàng nhấc Nga Bát lên, đặt ông ngồi ở phía sau lưng ngựa, sau đó phóng đi thật nhanh.
Đến núi Đan Kim, ông lão dẫn ông đi vào bên trong một cái hang động rất lớn, bên trong khá là tối, có một chút ánh sáng mờ nhạt. Ông lão bảo Nga Bát cởi bỏ y phục để ông kiểm tra một chút. Kiểm tra xong, ông lão rất vừa ý nói: “Rất tốt, trên thân cậu cái gì cũng không có, chính là người mà ta cần tìm”.
Đợi Nga Bát mặc quần áo xong xuôi, ông lão nói: “Ta cần cậu đi giúp ta gửi một món đồ đến một nơi rất xa, nhưng mà cậu là người phàm, đã ăn vật phẩm mà người thường hay ăn, bây giờ mà đi có thể không đến nơi đó được. Cậu hãy ở đây nghỉ ngơi một hồi, sau đó mới đi”. Nói xong, ông lão đi ra ngoài. Trong hang lập tức trở nên tối đen như mực, cái gì cũng nhìn không thấy. Nga Bát bèn nằm nghỉ ở trong hang động, nhưng mà trạng thái lúc này là ngủ như không, không ăn không uống, không khát cũng không thấy đói.
Cũng không biết đã qua bao lâu, đại khái là khoảng hai ba ngày, trong hang động lại có ánh sáng trở lại, còn sáng hơn lần trước. Nga Bát tỉnh lại, cảm thấy người vô cùng nhẹ nhõm, khắp người tràn đầy sinh lực. Ông lão lại đến, tay cầm một chiếc hộp nhỏ hình vuông màu đỏ giao cho Nga Bát, nói với ông rằng: “Cái này cho cậu, cậu hãy giao nó lại cho hộ Pháp của Thần núi Đường Nhã. Trong hộp này có rất nhiều thứ, cậu không được mở nó ra. Nhưng mà, cậu cũng không mở nó ra được đâu”.
Núi Đường Nhã ở huyện Quả Châu Ban Mã, tỉnh Thanh Hải, cách đây rất xa, bình thường cưỡi ngựa mất một ngày cũng không nhất định có thể đến nơi, nhưng mà, Nga Bát lúc đó không có nghĩ rằng đi núi Đường Nhã phải đi một chặng đường xa đến như vậy, ông cảm thấy gửi chiếc hộp này giúp ông lão dường như là chuyện rất là dễ dàng.
Nga Bát cầm lấy chiếc hộp nhỏ này rồi lên đường. Ông cảm thấy bản thân đi được rất nhanh, nhưng lại không tốn một chút sức lực nào. Chính ngày hôm đó trời đang có tuyết rơi, nhưng trên mặt tuyết lại không hề để lại dấu chân của ông. Khi băng qua con suối, giày cũng không bị ướt. Khi đi ngang qua con kênh trước làng của mình, ông dừng lại ngồi nghỉ một lát. Ông nhớ đến người mẹ già trong nhà, có cần trở về nhà thăm bà một chút không? Sau đó lại nghĩ, hay là làm xong việc mà ông lão giao phó rồi mới trở về. Có dân trong làng đi ngang qua trước mặt ông, ông nhìn thấy họ, nhưng họ lại không nhìn thấy ông. Ông cũng không muốn nói chuyện với họ, liền đứng dậy lại tiếp tục lên đường.
Trên đường đi, ông đã bắt kịp hai người cưỡi ngựa đi về phía Thanh Hải, liền cùng đi với họ một đoạn.Từ trong cuộc trò chuyện của hai người này, ông biết được đây là hai cha con, người cha tên là Oa Thoát, hai người là muốn đến chùa Ban Mã Trí Khâm. Ông cảm thấy ngựa của hai cha con họ chạy quá chậm, liền bỏ họ lại phía sau, một mình đi về phía trước.
Vượt qua mấy ngọn núi, băng qua mấy con sông, từ vùng Xuyên Bắc đi vào Thanh Hải. Đến chập tối, ông đã đến núi Đường Nhã. Ông thấy trời đã tối muộn, lòng nghĩ đợi đến ngày mai, khi trời sáng mới đi vào trong núi tìm Thần núi Đường Nhã vậy. Ông nằm ngủ một đêm ở dưới chân núi. Ngày hôm sau, mặt trời vừa mới ló rạng, ông liền đi lên trên núi. Đến trên núi, trước mắt bỗng xuất hiện một cửa hang rất lớn, ông đi vào trong cửa hang, chưa được mấy bước, có một bà lão cao lớn như Thần núi Đan Kim bước ra, đầu tóc bạc trắng, nếp nhăn khắp mặt, ít nhất đã được mấy trăm tuổi rồi.
Bà lão hỏi ông tìm ai. Ông nói tìm thần hộ Pháp của Thần núi Đường Nhã. “Ồ, đó là con trai của ta”, bà lão nói xong, liền quay đầu lại kêu ba tiếng. Một ngọn núi lớn đổ sụp xuống, sau đó biến thành hình người, vừa cao vừa lớn, là một ông lão có bộ râu rất dài, buông xuống mãi đến tận hông, tóc trên đầu cũng rất dài, rẽ thành hai bên. Gương mặt và bàn tay của ông lão đều đen thui, ngón tay còn thô hơn cả cây cổ thụ. Lúc này, Nga Bát bỗng nhiên cảm thấy bản thân cũng trở nên vừa cao vừa lớn, rừng rậm nằm dưới chân ông, giống như một mảnh cỏ xanh mà ông thấy lúc bình thường, ngọn núi xung quanh đã biến thành những gò đất nhỏ, lúc này ông có thể nhìn được những nơi rất xa.
Ông nói với Thần núi Đường Nhã rằng, Thần núi Đan Kim nhờ ông mang cái hộp này đến, sau đó liền trao chiếc hộp nhỏ màu đỏ đó cho ông. Thần núi Đường Nhã đón lấy chiếc hộp, mở ngay tại chỗ, trong hộp còn có hộp nhỏ, mở chiếc hộp nhỏ ra, bên trong có rất nhiều viên thuốc màu đen. Thần núi lấy ra 6 viên, trao cho Nga Bát, muốn ông đi một chuyến đến núi Ngưỡng Ngô Lý, giao lại cho hộ Pháp của Thần núi Ngưỡng Ngô Lý. Còn nói với ông rằng, sau khi đến nơi đó, chỉ cần gọi tên của Thần núi Ngưỡng Ngô Lý, rồi quẳng viên thuốc lên trời là được rồi.
Nga Bát cũng không biết đi núi Ngưỡng Ngô Lý là bao xa, ông đón lấy 6 viên thuốc mà Thần núi đưa cho ông, rồi đi tiếp …
Hoàn thành xong nhiệm vụ mà Thần núi Đường Nhã giao cho, Nga Bát lại trở thành một người bình thường, cảm thấy hơi mệt và hơi đói, ông ra ngoài mấy ngày rồi, đến bây giờ vẫn còn chưa ăn một chút gì, vẫn chưa uống một ngụm nước nào. Ông liền thuận theo con đường khi đến mà trở về …
Trên đường về nhà, khi đi ngang qua một ngôi làng, Nga Bát gặp được một người quen, người đó đã mời ông ăn cơm, còn mượn một con ngựa cho ông, rồi cùng ông trở về. Người đó nói với Nga Bát rằng người trong làng ông đã tìm kiếm ông khắp nơi, chỗ này cũng đã từng đến, họ đều nói ông đã mất tích rồi, không biết ông đã đi đâu.
Khi về đến nhà thì đã là buổi tối. Người trong làng nhìn thấy ông trở về đều mừng đến phát khóc. Mọi người lần lượt hỏi ông rằng: “Nga Bát, trong năm ngày năm đêm ấy, rốt cuộc ông đã đi đâu vậy? Chúng tôi bốn phương tám hướng đều đã tìm hết cả”. Họ còn nói, nếu như ông còn sống, sao lại không thấy bóng dáng đâu cả? Nếu nói ông đã chết rồi, sao lại không thấy xác đâu?”
Mẹ của ông thấy con trai đã trở về, ôm chầm lấy ông khóc lóc thảm thiết. Trong nhà đã mời đến một nhóm Lạt Ma đến để chuẩn bị làm hậu sự cho ông. Mấy ngày trước có hỏi qua mấy vị Phật sống, họ đều nói người vẫn còn sống, đừng lo lắng. Cử người đến chùa Sắc Đạt Lạc Nhã hỏi sư trụ trì Tấn Mỹ Bành Thố cũng nói ông được Thần núi mời đi, không phải chịu khổ, trong nhà chớ có niệm kinh Siêu Độ cho ông, nếu có thể thì hãy niệm kinh Trường Thọ, kinh Quy Y, qua năm ngày sẽ trở về.
Nga Bát đã kể lại trải nghiệm mấy ngày qua của bản thân mình với mọi người, câu chuyện này chẳng mấy chốc đã truyền khắp khu tự trị Tây Tạng. Cũng có người không tin, nhưng dó chỉ là thiểu số, đa số mọi người đều tin chuyện này. Bởi đây là trải nghiệm bản thân một cách hết sức thực tại của kế toán đại đội, hơn nữa mọi người trong làng lại chia nhau tìm kiếm ông như vậy, nhưng không tìm được, lại qua 5 ngày ông chẳng phải đã trở về giống như tiên đoán của sư trụ trì hay sao!
Sau khi Nga Bát trở về, vẫn làm công việc kế toán của mình. Nhưng con người ông đã hoàn toàn thay đổi, quá khứ không tin vào Thần Phật, thì hiện tại không chỉ đã tin vào Thần Phật, mà nhân sinh quan cũng đã thay đổi hẳn. Ông cũng rất bội phục thượng sư Tấn Mỹ Bành Thố, liền đến chỗ thượng sư quy y cửa Phật. Sau khi mẹ già của ông qua đời, ông liền đến viện Phật học Ngũ Minh xuất gia …
Hết thảy những ghi chép ở trên, hoàn toàn là tự thuật của Nga Bát đối với tôi, vì thuận tiện cho độc giả, mới sửa thành ngôi xưng hô thứ ba, không có bất cứ thổi phồng hay khoa trương nghệ thuật nào trong đó cả. Nga Bát đã bảo chứng với tôi, hết thảy những gì ông nói này đều hoàn toàn là chân thật. Người xuất gia không nói dối. Tôi cũng tin ông không nói dối, hơn nữa ông ấy cũng không cần phải nói dối.
“Ông trước đây tại sao lại không tin vào Thần Phật vậy?”, tôi hỏi ông ấy.
“Sau khi chính quyền Đảng cộng sản Trung Quốc đi vào vùng đất Tây Tạng, toàn bộ đền miếu đều bị đập phá, Lạt Ma cũng không có nữa. Những người già cả trong vùng đôi lúc nói với trẻ nhỏ rằng ở đây ngày trước đã từng là nơi nào nơi nào đó, ngày trước nơi đây đã từng có một ngôi chùa, đã từng thế nào thế nào … giống như đang kể một câu chuyện dường như đã rất xa vời vậy. Tôi đã đọc sách từ nhỏ, cái học được chính là những điều giáo dục “phá trừ mê tín” của chính quyền Đảng cộng sản Trung Quốc. Lúc đó tôi vẫn còn trẻ dại, không hiểu chuyện, cấp trên nói không có Thần Phật, tôi cũng nói theo là không có Thần Phật tồn tại”, Nga Bát trả lời.
“Sau khi ông được Thần núi gọi đi thì đã tin vào Thần Phật rồi?”.
“Đúng vậy, bởi vì tôi đã chính mắt nhìn thấy. Hơn nữa, sau này tôi còn có thể thấy được rất nhiều cảnh tượng tráng lệ khác nữa”.
“Ông là đến viện Phật học xuất gia hay sao?”.
“Đúng vậy. Sau khi mẹ tôi qua đời, tôi đã đến đây xuất gia. Lúc đó, nơi đây tổng cộng chỉ có hai, ba trăm người, không giống như hiện nay, đã có mấy nghìn người rồi”.
“Sau khi ông đến viện Phật học, vẫn làm kế toán chứ?”.
“Làm mấy năm quản lý, còn quản chút việc xây dựng nữa, nơi đây xây nhà Đại Kinh, nhà Hán Kinh, từ thiết kế đến thi công, đều là tôi giúp làm cả, đạo tràng Cư sĩ Lâm của dân tộc Tạng, cũng là tôi giúp xây dựng. Mấy năm nay tôi còn học lái xe Jeep đi Bắc Kinh, tôi biết nói một chút tiếng Hán, đi lại bên ngoài cũng khá là thuận tiện”.
“Nhà ông còn có những ai nữa không?”.
“Có chị gái, ở ngoài thôn. Một người em trai, hai người em gái, đều đang ở trong làng của mình. Anh cả đang là cục trưởng công thương trong huyện”.
“Có thể công khai cuộc trò chuyện của tôi với ông và họ tên của ông không?”.
“Có thể. Tôi mong sao có thể có nhiều người hơn nữa tin vào Thần Phật, có nhiều người hơn nữa sẽ học Phật học, nếu như mọi người đều tin vào Thần Phật, xã hội này của chúng ta nhất định sẽ trở nên tốt đẹp hơn”.
Nguyên bản: “Đông Bắc phong”
Biên tập: Tường Hòa
Tiểu Thiện, dịch từ soundofhope.org
>>> Vì sao người Do Thái vốn thông minh nhưng phải sống lang bạt suốt 2.000 năm?