[Chánh Kiến] Tôi rời khỏi nhà và trở thành một thầy tu trước khi tôi được 19 tuổi. Tôi đã tu luyện trong một hang động với sự giám hộ của một ông sư già. Năm 1994 tôi may mắn được dự lớp học Đại Pháp Luân của Sư phụ ở thành phố Cáp Nhĩ Tân. Trong tám ngày học tập, tôi đã tìm được sự trả lời của tất cả các câu hỏi mà tôi gặp trở ngại trong lúc tu luyện trước kia. Tôi đã phát triển lòng kính trọng sâu sắc vô cùng và tin tưởng vững chắc vào Sư Phụ nói về Đại Pháp của Vũ trụ Tôi từ từ tiến đến trạng thái khai Công, và tôi nhớ lại vài kiếp trước của tôi.
Mỗi học viên của Pháp Luân Đại Pháp phải trả một giá rất đắt để trở thành đệ tử của Chính Pháp. Nếu chúng ta không dành thì giờ quý báu mà chúng ta đã được cho, thời gian sẽ đi qua trong nháy mắt và chúng ta tự bỏ rơi. Để tượng trưng cho vô số chúng sinh trong khối vũ trụ to lớn và cứu độ họ trong thời Chính Pháp của vũtrụ, trong mỗi thời kỳ Chính Pháp, đệ tử Đại Pháp phải trải qua quá trình của sự tái sinh xuống tầng thấp, bắt đầu từ tầng căn bản của sinh mệnh họ đã được tạo ra. Sau đó những học viên phải sống gần 200 triệu năm ở Tam giới, nơi mà có nhiều khổ sở nhất, và lừa dối của toàn thể vũ trụ, trải qua kiếp này đến kiếp khác phải chịu nhiều điều gian khổ trước khi xứng đáng được là đệ tử trong thời Chính Pháp.
Tôi đã tu luyện trong nhiều kiếp. Sư Phụ nói, “Tạo mối quan hệ với nghiệp chướng chỉ là mục đích ở bên ngoài; sau khi rèn luyện nghiệp chướng, đệ tử Đại Pháp và Sư phụ có trách nhiệm chung vai, sáng tạo nền văn minh và văn hoá con người mà Đại Pháp đòi hỏi. ”( Trích Từ “Đi vòng Bắc Mỹ để giảng Pháp” ) Trong lịch sử, học viên Pháp Luân Công đã giúp đỡ sáng tạo, đặt để nền móng phổ biến Pháp và Chính Pháp, nhiều thành tựu đã làm xong do mỗi học viên trong chúng ta.
Tây Tạng là nơi đặc biệt có nhiều trường phái tu luyện của Phật giáo Tây Tạng. Trước khi tôi đầu thai ở thế giới loài người ở đời Đường, tôi đã xong phần tu luyện của môn phái Kagyupa của Mật tông trong kiếp trước, và Công của tôi bị đóng kín (vì nhiều tích lũy Đức nên tôi có thể xứng đáng là đệ tử của thời Chính Pháp sau này). Sau đó tôi đầu thai vào một gia đình thương gia ở Tây Tạng. Khi được ba tuổi có vài vị Lạt ma trưởng thượng đến tìm tôi. Có một vị trong Lạt ma đó lớn hơn tôi và có cùng chung một Sư Phụ với tôi trong kiếp trước. Tôi được đưa về phòng cũ mà ở điện Potala nơi mà tôi ở kiếp trước. Tôi ngồi trên giường của tôi. Vị lạt ma học cùng chung sư phụ đem vào những vật mà tôi đã dùng trong kiếp trước và có thêm quần áocủa người khác nữa. Ông đưa tôi từng món một mà tôi có thể lựa ra đồ vật của tôi để vào rương. Kế đó là lễnghi tôn giáo luôn nhiều ngày. Sau đó tôi chính thức bắt đầu tu luyện. Bắt đầu vị lạt ma dạy tôi đọc đọc kinh Mật tông. Mỗi đêm tôi thiền đến giữa đêm. Mỗi sáng tôi thức dậy để đọc kinh thật to. Khi tôi được bảy hay tám tuổi gì đó, mỗi ngày ngoài việc học kinh Phật, tôi học chiến đấu, đấu vật, tập dùng dao, cưỡi ngựa và những gì mà việc chuyên môn dành cho lạt ma. Mỗi ngày có chương trình cho tôi thật đầy đủ. Còn hơn thế nữa, tôi phải tham dự các lễ tôn giáo ở các thánh đường khác.
Một ngày nọ, vị lạt ma trưởng thượng ở Kagyupa sắp chết, và hầu như tất cả lạt ma tại Kagyupa đến dự Pháp hội để tưởng niệm ông. Ban ngày ông trao đổi kinh nghiệm tu học với các vị cao tăng và những người tu luyện lớn tuổi trong nước. Ban đêm thì ông thuyết giảng lần cuối cùng cho các môn đệ. Kế đó khi ngồi tréo chân xếp bằng ông chết với nụ cười trên môi. Một lúc sau thân ông toả ra hồng quang sáng chói. Trong nháy mắt thân thể ông tan vào hồng quang và biến mất ở trong không gian chỉ để lại móng tay, móng chân và quần áo. Hôm nay vị lạt ma ấy hoá thân trong thế giới người là một bà lão học viên mà tôi biết rất rõ. Bà rất nghiêmtúc trong sự tu luyện, và bà thúc giục tôi phải siêng năng thăng tiến trong sự tu luyện của tôi.
Phật giáo Tây Tạng có nhiều phương pháp tu luyện bí mật, người sư phụ chỉ có thể dạy cho một đệ tử. Thí dụ như, khi mở Thiên mục (con mắt thứ ba), ở trong phòng kín, người sư phụ dùng huyền năng để lấy miếng xương trước trán của người đệ tử, để lại vết sẹo đỏ nhỏ cỡ đồng tiền ở trên trán sau khi vết thương đã lành.
Một thí dụ khác về song tu của một người đàn ông và đàn bà. Trước khi người sư phụ có thể truyền mật pháp tu luyện, người tu luyện song tu ít nhất phải đạt đến tầng của trình độ La hán, và cũng đã hiện thân từ cao tầng. Hơn thế nữa hai người phải trùng giờ sanh. Trước khi tu luyện pháp môn đó, hai người phải trải qua lễtôn giáo từ bảy đến hai mươi mốt ngày để thanh lọc bản thể và tư tưởng. Trong thời gian ấy, họ có thức ăn và thuốc đặc biệt. Cộng thêm tu luyện song tu phải ở thời giờ đặc biệt theo lịch Tây Tạng.
Khi tôi được mười tám tuổi, các vị lạt ma trưởng thượng trắc nghiệm cẩn thận từ đầu đến cuối tất cả mỗi khía cạnh mà tôi đã học qua. Họ định giá toàn diện và những khuyết điểm trong sự tu luyện của tôi. Kế đó tôi trải qua giai đoạn mới như là, truyền Phật Pháp và mở rộng sự rèn luyện mối liên hệ từ thiện. Vì địa vị đặc biệt của tôi, mỗi tháng tôi phải dùng nhiều thời giờ hơn các vị lạt ma trung bình có địa vị thấp để đi hành thiện đến với các chúng sinh nam nữ những ai có duyên với Phật pháp. Bổn phận tôi là để phổ biến nguyên tắc tu luyện cho họ. Dĩ nhiên tôi chỉ dạy họ pháp tu luyện ở tầng thấp và đễ hiểu những yếu tố căn bản Phật pháp. Tôi cũng lắng nghe các vị lạt ma tài giỏi chia sẻ sự hiểu biết về Phật pháp và kinh nghiệm tu luyện của họ.
Mỗi vị chính tông lạt ma đều có năng lực mạnh phi thường. Phật pháp nhân từ với chúng sinh, nhưng cũng được đề cao. Mỗi năm ở Kagyupa tổ chức Pháp Hội thường niên vào mùa thu, trong thời giờ đó các vị lạt ma trưởng thượng chia sẻ những gì họ thấy trước cho năm tới. Để tôi quyết định phải đối phó (đến lúc ấy tôi đã là ở địa vị lớn nhất).
Có một năm, các vị lạt ma trưởng thượng đều thấy trước việc giống nhau. Tất cả họ đều thấy tà giáo của chủng tộc khác lạ đến xâm chiếm Tây Tạng. Sau khi bàn luận và chia sẻ những sự hiểu biết với nhau, để bảo đảm sự tu luyện ở Kagyupa có thể truyền xuống hoàn toàn cho thế hệ sau này, và để bảo vệ sự phồn thịnh của Phật pháp ở Tây Tạng. Tôi ra lệnh các vị hộ pháp lạt ma trừ khử ngay liền những ám ảnh xấu xa ở không gian khác muốn phát động chiến tranh, và trừng phạt những kẻ ác độc trong thế giới loài người. Hơn nữa tôi cho chính quyền địa phương biết ý định và kế hoạch xuất quân của kẻ địch để chính quyền địa phương có thể chuẩn bị cho chiến tranh sắp đến. Năm sau kẻ xâm lăng xuất quân như dự liệu, nhưng quân lính của họ nữa chừng gặp phải lụt lội và sau đó bị quân đội Tây Tạng phục kích. Họ bị thua một cách thê thảm và rút quân về sau khi bị bại trận.
Ở điện Potala Palace có nhiều địa đạo và nhiều phòng kín. Những phòng kín này để xác các vị lạt ma trong suốt quá trình lịch sử và những di vật văn hóa tài liệu bao gồm những bí mật mà người trong thế giới không thể nào tìm ra được.
Những năm sau cùng của kiếp đó, vì tôi cần mẫn tiến lên không hề giảm bớt, tôi đã đạt được tầng cao nhất của pháp tu luyện Kagyupa. Một ngày nọ tôi đang ngồi thiền, tôi đã được chứng ngộ bởi Sư phụ và có được quyển sách Phật pháp siêu phàm. Tôi tu luyện theo những nguyên lý của cuốn sách cho đến khi tôi hội nhậpNirvana (niết bàn). Đó là tiến trình mà tôi đã trải qua cả cuộc đời tu luyện và đạt được mục đích tu luyện của kiếp đó. Từ đó theo sự sắp xếp của Sư phụ tôi đã sinh ra trong kiếp tới.
Tôi đã sinh ra ở Mông Cổ trong thời kỳ Thành Cát Tư Hãn, ở Pháp dưới thời Đệ Nhị Thế Chiến. Thật ra thì những khuôn mặt quen biết ở thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến hiện tại là những học viên Pháp Luân Công.
Tôi chia sẻ kinh nghiệm tu tuyện kiếp trước của tôi hầu mong giúp đỡ phần nào cho các học viên tu luyện để chúng ta để dành thì giờ cho tu luyện trong Chính Pháp và hơn nữa nhận lấy trách nhiệm khi chứng thực Pháp và cứu độ chúng sinh.
Đôi khi tôi nghe bài hát “Quinghai-Tibet Plateau”, Tôi hình dung lại nơi cao nguyên tuyết phủ, nơi đất thánh, thanh khiết, thần bí mà tôi đã sống và tu luyện.